NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC VÀ ĐỊA VỊ LỊCH SỬ CỦA NÓ QUA TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC GIAI ĐOẠN TỘT CÙNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN”.Ý NGHĨA TRONG XEM XÉT CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY. - Pdf 25

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
VÀ ĐỊA VỊ LỊCH SỬ CỦA NÓ QUA TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
GIAI ĐOẠN TỘT CÙNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN”.Ý NGHĨA TRONG
XEM XÉT CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY.
1. hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
1.1về mặt kinh tế.
Vào những năm cuối của thế kỷ 19 lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản phát
triển mạnh mẽ, nhiều thành tựu kinh tế mới trong chủ nghĩa tư bản nói riêng, nhân
loại nói chung đã xuất hiện các lò luyện kim thế hệ mới trong lĩnh vực luyện kim;
những máy móc mới như máy phay, máy phát điện, các máy công cụ, máy phát
điện v.v…trong lĩnh vực chế tạo máy.trong lĩnh vực vận tải, đi cùng sự xuất hiện
các loại động cơ, nhiều loại phương tiện vân tải mới đã xuất hiện như tàu hoả, tàu
thuỷ, xe hơi, xe điện, máy bay. Chính sự xuất hiện của lĩnh vực trên, một mặt làm
xuất hiện những ngành sản xuất mới có quy mô lớn, mặt khác đã thúc đẩy năng
xuất lao động tăng nhanh và thúc đẩy việc tăng quy mô tích luỹ tư bản , thúc đẩy
sản xuất quy mô lớn phát triển. Từ những tác động trên dẫn tới hệ quả là ở các
nước tư bản phát triển xuất hiện những xí nghiệp quy mô hết sức to lớn ở hầu hết
các lĩnh vực của nền kinh tế. Trước sự phát triển đó của lực lượng sản xuất thì
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng biến đổi phù hợp, từ đó làm cho chủ nghĩa
tư bản mang những đặc điểm kinh tế mới. Nền kinh tế không còn hoạt động theo
những quy luật khách quan của thị trường, nhiều tổ chức độc quyền đã ra đời như
các Tờ rớt, xanh-đi-ca. Đó là các cơ sở kinh tế cho sự ra đời của một hình thái mới
của chủ nghĩa tư bản. Từ đó có nhiều cách gọi khác nhau về chủ nghĩa tư bản trong
giai đoạn này. Cauxky cho nó là một phương thức sản xuất mới mà ở đó những đặc
tính của chủ nghĩa tư bản không còn, Hin-fec-đin lại cho rằng chủ nghĩa đế quốc là
một chính sách của một giai đoạn kinh tế của tư bản tài chính, còn Lipman và một
số học giả khác thì mô tả chủ nghĩa đế quốc như một thứ chủ nghĩa tư bản đặc thù
và gọi là chủ nghĩa tư bản có tổ chức.
1.2.Về mặt chính trị tư tưởng.
1
Cuộc đấu tranh giữa các nước tư bản chủ nghĩa đã làm cho các mâu thuẫn của chủ

năm 1915 tại Btrôgrat. Ngày 19 tháng 6 năm 1916 ông gửi bản thảo cho nhà xuất
bản và đến giữa năm 1917 cuốn sách được xuất bản với tiêu đề “ Chủ nghĩa đế
quốc giai đoạn mới nhất của chủ nghĩa tư bản (khái lược phổ thông)”. Trong cuốn
này lời tựa đề ngày 26 tháng 4 năm 1917. Đến năm 1921 tác phẩm được xuất bản
bằng hai thứ tiếng là tiếng Đức và tiếng Pháp với tiêu đề: “ Chủ nghĩa đế quốc giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” , tác phẩm được dịch ra tiếng Việt và xuất bản
đầu tiên năm 1950 và sau đó in lại nhiều lần.
2. Những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa đế quốc.
Những đặc điểm kinh tê của chủ nghĩa đế quốc được Lê-nin phân tích trong 6
chương, từ chương 1 đến chương 6 của tác phẩm. 5 đặc điểm đó là:
2.1.Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền.
Toàn bộ chương I nói về sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền, Lênin
dùng số liệu thu thập được ở một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển như: ( Đức,
Anh, Mỹ) để chứng minh rằng, tập trung sản xuất là một trong những đặc điểm
điển hình nhất của chủ nghĩa tư bản trong những năm cuối thế kỷ XIX, dựa vào
những lý luận của Mác khi phân tích chủ nghĩa tư bản về mặt lý luận và lịch sử để
chứng minh cho nhận định của Mác rằng: Tự do cạnh tranh dẫn đến tập trung sản
xuất và khi tập trung sản xuất đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến độc quyền từ
đó Lênin khẳng định, tập trung sản xuất dẫn đến sự ra đời của tổ chức độc quyền là
quy luật phổ biến và căn bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Lênin cũng chỉ ra lịch sử hình thành của các tổ chức độc quyền đó là sự vận động
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ mầm mống đến phổ biến, từ sản xuất
đến lưu thông. Ông cũng phân tích mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh, chỉ
rõ độc quyền sinh ra từ cạnh tranh, nhưng không thủ tiêu được cạnh tranh mà trái
lại càng làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Lênin cũng phân tích các thủ đoạn
chiến tranh mà các tổ chức độc quyền sử dụng, trên cơ sở đó Ông phê phán Cauxki
khi cho rằng độc quyền ra đời sẽ thủ tiêu cạnh tranh và sẽ không còn khủng hoảng
kinh tế nữa.
3
2.2 Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính.

thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thì xuất khẩu hàng hoá là đặc điểm chủ
yếu còn xuất khẩu tư bản dường như chưa diễn ra mà mới chỉ ở dạng manh nha.
Nhưng đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến,
xuất khẩu hàng hoá chỉ là song hành mà thôi. Lênin cũng chứng minh về tính tất
yếu của xuất khẩu tư bản, chỉ ra 2 nguyên nhân của xuất khẩu tư bản là do hiện tư-
ợng “thừa tư bản” trong các nước tư bản phát triển; tình trạng thừa này không phải
là thừa tuyệt đối mà chỉ là thừa thừa tương đối, nghĩa là không tìm được nơi đầu tư
có lợi nhuận cao ở trong nước. Mặt khác, do các nước chậm phát triển bị lôi cuốn
vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản thế giới, nhưng ở những nước này lại thiếu tư
bản dẫn đến xuất khẩu tư bản ra đời và phát triển. Lênin cũng phân tích các hình
thức xuất khẩu tư bản, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất
khẩu tư bản gián tiếp. Xuất khẩu tư bản tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra nước
ngoài để kinh doanh trực tiếp, thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là cho
vay để thu lợi tức.
Việc xuất khẩu tư bản chính là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra
nước ngoài; là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính
trên phạm vi toàn thế giới. Hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới hình thành
trước hết dưới tác động của xuất khẩu tư bản, đã trở thành hệ thống nô dịch của tư
bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới. Các nước nhập khẩu tư bản trở thành đối
tượng bị bóc lột về kinh tế, nô dịch về chính trị dưới những hình thức và mức độ
khác nhau; xuất khẩu tư bản chính là xuất khẩu sự bóc lột, bóc lột bình phương đối
với các nước nhập khẩu. Tuy nhiên xuất khẩu tư bản, về khách quan cũng có
những tác động tích cực đối với nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá
trình chuyển kinh tế tự cung tự cấp thành kinh tế hành hoá, thúc đẩy sự chuyển
biến cơ cấu kinh tế từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế nông-công
nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế của các nước
xuất khẩu tư bản.
5
2.4.Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của các nhà tư bản.
Chương V, nói về sự phân chia thị trường giữa các liên minh của bọn tư bản. Lênin

chia lại lãnh thổ thế giới. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất là sự khởi đầu cho
việc giải quyết phân chia lãnh thổ thế giới bằng quân sự giữa các nước đế quốc có
tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh.
Tóm lại trong tác phẩm này, sau khi phân tích những hiện tượng mới trong sự phát
triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương đại (05 đặc điểm trên), Lênin cho rằng
chủ nghĩa đế quốc chỉ là sự phát triển và kế tục trực tiếp những đặc tính cơ bản của
chủ nghĩa tư bản và nhấn mạnh rằng: “ Chủ nghĩa tư bản chỉ trở thành đế quốc khi
nó đã đạt tới một giai đoạn phát triển nhất định, rất cao, khi một số những đặc tính
cơ bản của chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu biến thành những đặc tính trái ngược với
những đặc tính đó…Điều căn bản về mặt kinh tế trong quá trình này là việc những
công ty độc quyền tư bản chủ nghĩa đã thay thế cho cạnh tranh tự do tư bản chủ
nghĩa”
1
.
Như vậy, chủ nghĩa đế quốc chỉ được xác lập và hình thành khi độc quyền thay thế
cạnh tranh tự do và thống trị các quan hệ kinh tế- xã hội, chứ không phải là sự phủ
định hoàn toàn cạnh tranh tự do. Độc quyền chỉ có thể thay thế cạnh tranh chứ
không thể thủ tiêu được cạnh tranh.
3. Địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc và ý nghĩa của nó trong xem xét chủ
nghĩa tư bản ngày nay.
Khái quát về chủ nghĩa đế quốc, Lênin nêu lên ba định nghĩa về chủ nghĩa đế quốc.
Lúc đầu, Lênin định nghĩa: “ Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn độc quyền của chủ
nghĩa tư bản”
2
Với định nghĩa này đã bao hàm cái căn bản nhất của chủ nghĩa đế quốc, phân biệt
chủ nghĩa đế quốc với giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.
Tuy nhiên, để đầy đủ hơn Ông đã nêu lên định nghĩa thứ 2 đó là sự cụ thể hoá về
mặt kinh tế qua 5 dấu hiệu của chủ nghĩa đế quốc: “ Chủ nghĩa đế quốc là chủ
nghĩa tư bản đạt đến một giai đoạn phát triển. Trong đó, sự thống trị của các tổ
1

nghĩa đế quốc không chỉ là ăn bám và thối nát, mà còn là: “ Chủ nghĩa tư bản quá
độ, hay nói cho đúng hơn, chủ nghĩa tư bản đang hấp hối”
4
. Điều đó có nghĩa là
chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản đã phát triển tới đỉnh cao của nó, tất yếu
3
V.I Lênin to n tà ập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 489, 490
4
V.I Lênin to n tà ập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 531,538
8
phải diệt vong nhường chỗ cho một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn đó là:
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính chủ nghĩa đế quốc làm cho nền sản
xuất xã hội hoá cao, đồng thời cũng làm cho mâu thuẫn cơ bản của nó phát triển
đến tột độ, làm bùng nổ cách mạng vô sản để xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
đế quốc.
Khi cuốn sách được viết và xuất bản lần đầu đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao của
chế độ Nga Hoàng, do vậy, để đảm bảo cho tác phẩm được xuất bản hợp pháp,
Lênin phải dùng lối nói bóng gió. Sau cách mạng tháng 10 nga, trong lời tựa viết
cho bản tiếng Pháp và Đức, ông trình bày rõ tư tưởng của mình về sự tất yếu của
chủ nghĩa đế quốc: “ Chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng xã hội của
giai cấp vô sản”
5
.
Những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa đế quốc bao gồm mâu thuẫn giữa lao động
và tư bản; giữa đế quốc và thuộc địa; giữa đế quốc với đế quốc Toàn bộ sự phân
tích về kinh tế và chính trị của Lênin trong tác phẩm đều thể hiện và chứng minh
mâu thuẫn đó. Thông qua khái niệm: “ ăn bám, thối nát, hấp hối’ Ông khẳng định
sự diệt vong của chủ nghĩa đế quốc là không thể tránh khỏi.
Những kết luận của Lênin về địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc đã được thực
tiễn chứng minh ngay từ đầu thế kỷ 20, mở đầu bằng cách mạnh tháng mười Nga,

Nó là một vấn đề không dễ nếu không nói rằng hết sức khó khăn, bởi vì đối tượng
dự báo có những vận động phức tạp. Phức tạp do bản thân nó không những là một
hình thái kinh tế xã hội phức tạp mà còn vì ngày nay sự vận động của nó gắn liền
với sự vận động của nhiều hệ thống khác của thế giới đương đại như dân số, môi
trường do đó vấn đề nhân thức về thế giới đương đại trong đó có chủ nghĩa tư bản
hiện đại khó khăn hơn trước và điều đó chứng tỏ rằng, tuy thế giới vẫn vận động
trong tính quy luật của nó, nhưng tính quy luật đó biểu hiện ra ngày cành phức tạp
hơn, bởi vì hệ thống lớn chịu sự tác động của nhiều hệ quy luật hơn, các hệ quy
luật này lại có môi trường tác động rộng hơn lại có quan hệ tương tác vói nhau
nhiều hơn, phát sinh các tác động đa chiều đối với các đối tượng làm cho các đối
tượng có nhiều khả năng phát triển tuỳ theo sự biến đổi của các dữ kiện tác động,
tạo ra những hậu quả bất ngờ mà mới thoạt nhìn cái ngẫu nhiên dường như áp đảo
và chi phối cái tất yếu. Thế nhưng, nhìn cho kỹ cho dù là hệ thống lớn thông qua
10
vô số cái ngẫu nhiên, thông qua sự hỗn độn, nhưng một “trật tư mới” vẫn được
thiết lập; nó không phải do một ý trí, một trí khôn thần bí nào mà vẫn là sự vận
động có tính quy luật khách quan của thế giới. Ngày nay tính quy luật khách quan
nằm ở tầng sâu các sự kiện cho nên khó nắm bắt hơn, nhưng bằng tư duy khoa học
con người vẫn có thể nắm bắt được và cần phải nắm bắt để làm cho hoạt động cải
tạo tự nhiên, xã hội và bản thân mình càng có tính tư giác, đem lại hiệu quả cao
hơn.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay có những bước phát triển hết sức mới, diện mạo
đã có nhiều thay đổi so với đầu thế kỷ, có rất nhiều đặc điểm mới so với đầu thế kỷ
như : sự toàn cầu hoá của chủ nghĩa tư bản, các công ty xuyên quốc gia, các định
chế kinh tế và tài chính quốc tế, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Có thể có một khái niệm ngắn gọn về chủ nghĩa tư bản hiện nay hay hay
không? có thể. Chúng ta có thể gọi chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản
toàn cầu hoá. Đó là vì chủ nghĩa tư bản hiện đại ra đời và phát triển cùng với quá
trình toàn cầu hoá mới diễn ra trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, là sản
phẩm của quá trình đó. Đó là một quá trình kinh tế khách quan của chính nền kinh

lợi thế trong cạnh tranh. Cạnh tranh gay gắt của những gã khổng lồ tất nhiên làm
điêu đứng các công ty vừa và nhỏ, làm phá sản nhiều công ty đó, nhưng rồi chính
quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại lại làm mọc lên hàng loạt các
công ty vừa và nhỏ mới, tồn tại song song với nhiều công ty lớn vì các công ty vừa
và nhỏ có ưu thế : kinh doanh linh hoạt, có mặt hiệu quả kinh tế cao, giải quyết nạn
thất nghiệp cho xã hội tương đối dễ dàng.
Các công ty độc quyền xuyên quốc gia là sự gộp lại của tư bản tài chính
nhiều quốc gia; nhưng chúng vẫn có quốc tịch nhất định. Điều đó có nghĩa là thông
thường chúng vẫn chủ yếu thuộc về tư bản tài chính của quốc gia sáng lập, hoặc có
tye lệ cổ phiếu khống chế. Chính vì như vậy, các công ty độc quyền xuyên quốc
gia thường lấy nước họ làm căn cứ địa, gắn kết chặt chẽ với nhà nước tư bản độc
quyền của mình, đồng thời hướng về cả thế giới làm địa bàn hoạt động kinh doanh.
Do mạng lưới đại diện trải ra trên toàn cầu và có sức mạnh tài chính to lớn, các
12
công ty độc quyền xuyên quốc gia thúc đẩy phân công lao động quốc tế, tạo ra
những năng lực sản xuất mới, tạo ra những lợi thế cạnh tranh to lớn. Các công ty
đó có năng lực mạnh tổ chức nghiên cứu khoa học, công nghệ mới và ứng dụng
nhanh chóng vào sản xuất, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn, biết khai thác
tài nguyên ở những nới có tài nguyên phong phú và thích hợp; tổ chức gia công
chế biến sản phẩm ở những nơi có phân công phù hợp và giá rẻ, tổ chức phân phối
và tiêu thụ sản phẩm ở những khu vực có dung lượng thị trường lớn
Như vậy, các công ty độc quyền xuyên quốc gia là là một đặc trưng riêng có
của chủ nghĩa tư bản hiện đại, là hình thức tổ chức độc quyền mà đầu thế kỷ chưa
có hoặc nếu có cũng chỉ dưới hình thức manh nha, ở trình độ thấp; là sự quốc tế
hoá của tư bản đến quy mô cao nhất là trình độ toàn cầu. Các công ty độc quyền
xuyên quốc gia và quá trình toàn cầu hoá đã làm xuất hiện các định chế kinh tế và
tài chính quốc tế như tổ chức thương mại thế giới(WTO), quỹ tiền tệ quốc tế
( IMF), ngân hàng thế giới( ƯB) Các tổ chức đó đã làm được một số việc có ích
trong điều hoà phối hợp sự phát triển của các quốc gia, thúc đẩy sự hỗ trợ hợp
tác thế nhưng các tổ chức đó chưa thể đóng được vai trò của các cơ quan kinh tế

đầu tư nhà nước; các mô hình, thể chế kinh tế nhà nước cũng đa dạng ở tuỳ từng
nước như: mô hình thể chế kế hoạch hoá ở Pháp, mô hình thể chế sở hữu ở Anh,
mô hình thể chế nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, mô hình thể chế quan dân hỗn
hợp ở Nhật Bản (nhà nước và các doanh nghiệp cùng làm)…Tất cả những biến đổi
kinh tế đó được quy định bởi bối cảnh kinh tế sau chiến tranh, bối cảnh này buộc
vai trò kinh tế của nhà nước tư bản độc quyền phải tăng lên theo những hướng xác
định.
Sau chiến tranh, thế giới chia làm hai thái cực, hai hệ thống xã hội – cũng là lúc
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ được khởi động, cuộc chiến tranh kinh tế
ngày càng diễn ra gay gắt theo hướng phải tăng đầu tư và đổi mới công nghệ, từng
nhà tư bản, từng tập đoàn tư bản nhỏ bé lúc đó chưa đủ sức để tiếp nhận và triển
khai cuộc cách mạng khoa học và công nghệ; chỉ nhà nước mới đảm đương được
nhiệm vụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các cơ sở khoa học và công nghệ mới. Liên
14
xô đã có những bước tiến thần kỳ trong lĩnh vực chinh phục khoảng không vũ trụ;
vệ tinh đầu tiên, con tàu đầu tiên đi vào vũ trụ đều mang tên Nga… Tất cả hoàn
cảnh đó đòi hỏi các nhà nước tư bản độc quyền phải can thiệp mạnh mẽ hơn vào
kinh tế, vào đời sống nhân dân để giành ảnh hưởng với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Từ những cơ sở trên đây có thể khảng định rằng sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai các nhà nước tư bản độc quyền can thiệp sâu hơn, nhiều mặt hơn vào đời
sống kinh tế xã hội so với nửa đầu thế kỷ XX, Đó là điểm mới thứ hai của chủ
nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại là một chủ nghĩa tư bản không còn hệ thống
thuộc địa (kiểu cũ cũng như kiểu mới), nhưng vẫn tồn tại một chủ nghĩa thực
dân kinh tế, chủ nghĩa thực dân của chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá.

15
Trên thực tế chủ nghĩa tư bản hiện đại đã đạt được những thành tựu nhất
định đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, trong khi chủ nghĩa xã hội hiện thực lại đang
lâm vào khủng hoảng, thoái trào, nhng bản chất của thời đại không hề thay đổi.

của Lênin về chủ nghĩa đế quốc cũng như những kết luận của người trong tác
phẩm: “ Chủ nghĩa đế quốc- giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản ” vẫn giữ
nguyên giá trị , có ý nghĩa sâu sắc trong chỉ đạo đối với cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và các dân tộc bị áp bức bóc lột trên phạm vi toàn thế giới. Do những
hạn chế về mặt lịch sử, Lênin có thể sai khi dự đoán về thời gian diệt vong của chủ
nghĩa đế quốc nhng không thể sai khi kết luận về tính tất yếu diệt vong của chủ
nghĩa đế quốc. Ngày nay, khi lịch sử đã có nhiều thay đổi, việc tiếp tục bảo vệ và
phát triển những kết luận của Lênin về địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc là rất
cần thiết, nó đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn khoa học, lịch sử và biện chứng, từ
đó thấy được bức tranh toàn diện về chủ nghĩa t bản ngày nay và giới hạn không
thể vợt qua của chúng trong quá trình biến đổi, thích nghi. Cho dù chủ nghĩa xã hội
thế giới đang lâm vào thoái trào, chịu những tổn thất to lớn nhng chúng ta vẫn tin t-
ởng vào tơng lai, loài ngời sớm hay muộn nhất định sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội.
Tác phẩm “ Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”
của Lênin là mẫu mực của sự vận dụng phơng pháp biện chứng vào việc phân tích
một hiện tợng xã hội phức tạp. Với phơng pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, sự kết
hợp chặt chẽ giữa tính lịch sử với tính lô gích và nhiều phơng pháp khác được
Lênin sử dụng nhuần nhuyễn khiến các vấn đề dù khó đến mấy vẫn dần trở nên dễ
dàng hơn.
Tác phẩm còn trang bị cho những người cộng sản, những ngời mác xít một
cái nhìn đúng đắn về chủ nghĩa tư bản hiện đại, giúp các Đảng cộng sản hoạch
định đường lối chiến lược của mình trong quan hệ đối nội và đối ngoại nhất là
trong quan hệ với các nước cường quốc tư bản chủ nghĩa. Vận dụng và phát triển
17
sáng tạo lực lượng về thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, do Lênin
xác lập trong tác phẩm này và các tác phẩm khác, cũng như quan điểm của chủ tịch
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa tư bản và vận dụng sáng tạo sự kết hợp cách mạng giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, đồng thời căn cứ vào những điều kiện lịch
sử, cụ thể của xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, xu thế thay đối đầu bằng đối thoại,
thay xung đột bằng hợp tác đa dạng, đa phơng hiện nay, Đảng, Nhà nước ta đã đề

độc quyền tuy chiếm số lợng ít trong tổng số các xí nghiệp nhng lại chiếm phần
lớn số lao động trong xã hội, tổ chức độc quyền sản xuất và cung cấp đại bộ phận
hàng hoá trên thị trờng đồng thời thu hầu hết lợi nhuận. Lênin viết: “ Hàng vạn xí
nghiệp thật lớn là tất cả, còn hàng triệu xí nghiệp nhỏ chỉ là số không”và “ gần
một nửa tổng số sản xuất trong nớc mà lại do một phần trăm số xí nghiệp cung
cấp”
8
Trong lưu thông, thông qua sự thoả thuận, ký kết, các tổ chức độc quyền thâu tóm
hầu hết thị trường hàng hoá, thị trường lao động, nguyên nhiên liệu Từ đó, định ra
giá cả độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền cao.
Độc quyền trong sản xuất kéo theo sự ra đời của các tổ chức độc quyền trong ngân
hàng, làm thay đổi căn bản vai trò của ngân hàng và ngân hàng có vai trò mới. Sự
dung hợp giữa các tổ chức độc quyền ông nghiệp và ngân hàng hình thành nên t
bản tài chính. Sự ra đời của tư bản tài chính đảm bảo vững chắc cho các tổ chức
độc quyền trên mọi lĩnh vực của đời sống- xã hội. Tư bản tài chính thống trị toàn
bộ nền kinh tế thông qua chế độ tham dự và chế độ uỷ nhiệm. Sự thống trị về kinh
tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị, chúng chính là những kẻ
quyết định đến đường lối đối nội và đối ngoại của Nhà nước tư sản.
Trên cơ sở thu được khối lợng lợi nhuận khổng lồ, các tổ chức độc quyền tìm cách
bành trướng sự thống trị của mình ra thế giới thông qua xuất khẩu t bản. Sự bành
trướng của các tổ chức độc quyền ra bên ngoài tất yếu dẫn tới sự cạnh tranh quyết
liệt giữa chúng trên thị trờng quốc tế. Các tổ chức độc quyền quốc tế ra đời có ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế và chính trị thế giới, chúng ký kết phân chia ảnh hưởng
về kinh tế nh: (thị trờng hàng hoá, nguyên nhiên liệu) sau đó là sự phân chia thế
giới về mặt lãnh thổ thông qua các cuộc chiến tranh xâm lược.
8
V.I Lênin to n tà ập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 397, 398
19
Như vậy có thể nói rằng, độc quyền là đặc tính căn bản và bao trùm nhất của chủ
nghĩa đế quốc được nêu rõ trong tác phẩm này. Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của

đến thối nát đó, loại trừ sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa t bản, thì nh thế
là sai lầm. Không, trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, một số ngành công nghiệp
nào đó, một số tầng lớp nào đó trong giai cấp tư sản, một số nớc nào đó đều biểu
hiện hoặc ít, hoặc nhiều, khi thì xu hướng này, khi thì xu hướng kia. Xét toàn bộ,
chủ nghĩa tư bản phát triển vô cùng nhanh hơn trước, nhng nói chung thì sự phát
triển đó không những trở thành không đồng đều hơn trớc, mà sự phát triển không
đồng đều này nói riêng biểu hiện cả ở sự thối nát của các nước có nhiều tư bản
nhất( nước Anh)
1010
V.I Lênin to n tà ập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mat x cơ va, 1980, Tr 536
21


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status