Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (Từ góc nhìn từ sự - Pdf 25


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐỖ THỊ NGỌC ĐIỆP


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐỖ THỊ NGỌC ĐIỆP

Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 8
2.1. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh 8
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh từ góc nhìn tự sự. 10
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu 12
4. Phương pháp nghiên cứu 14
5. Đóng góp mới của luận văn 15
6. Cấu trúc luận văn 15
GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM 16
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ CỐT TRUYỆN 19
1. Cốt truyện trong tác phẩm văn xuôi tự sự 19
1.1. Khái niệm cốt truyện 19
1.2. Cốt truyện trong truyện ngắn và cốt truyện trong tiểu thuyết 22
1.3 Vai trò của cốt truyện 23
2. Cốt truyện trong phim truyện điện ảnh 24
2.1. Khái niệm cốt truyện trong phim 24
2.2. Đặc điểm cốt truyện phim 26
3. Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh từ góc
nhìn cốt truyện. 31
3.1. Tiếp thu, bổ sung và cải biên về đường dây cốt truyện chính 33
3.2. Tiếp thu, bổ sung và cải biên về chi tiết nghệ thuật 41
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh đã và đang là
hiện tượng hết sức phổ biến trong đời sống văn hoá nghệ thuật cả ở Việt Nam
và trên thế giới. Chưa ai có thể thống kê nổi con số khổng lồ về những tác
phẩm văn học đã được chuyển thể thành phim. Chỉ biết rằng: Hầu hết tác
phẩm văn chương ưu tú của các dân tộc ở mọi thời đại khác nhau đều đã một
lần, thậm chí hơn một lần sống đời sống mới của mình trong ngôi nhà của
nàng Muydơ thứ 7. Từ những thiên anh hùng ca, những câu chuyện truyền
thuyết, thần thoại, truyện thơ… trong kho tàng văn học dân gian, ra đời từ khi
con người chưa có chữ viết: anh hùng ca Iliát và Ôđixê (Homerơ, thế kỷ 9 - 8
trước công nguyên), Thần thoại Hy Lạp, Nghìn lẻ một đêm… đến những tác
phẩm văn học cổ điển như: Đôn Kihôtê (Miguel de Cervantes Saavedra, 1605,
văn học Tây Ban Nha), Đồi gió hú (Emily Brontê, 1847, văn học Anh), Bà
Bôvary (Gustave Flaubert, 1856, văn học Pháp) Những người khốn khổ
(Victor Hugo, 1862, văn học Pháp), Chiến tranh và Hoà Bình (Lev
Nikolayevich Tolstoy, 1865, văn học Nga), Kiêu hãnh và Định kiến (Jane
Austen, 1813, văn học Anh), Cuốn theo chiều gió (Margaret Mitchell, 1936,
văn học Mỹ), Tam Quốc diễn nghĩa (La Quán Trung, thế kỷ XIV, văn học
Trung Quốc), Tây du ký (Ngô Thừa Ân, xuất bản những năm 1590, văn học
Trung Quốc), Hồng lâu mộng (Tào Tuyết Cần, thế kỷ XVIII, văn học Trung

văn học: The curious case of Benjamin Button chuyển thể từ một truyện ngắn
của nhà văn Mỹ Frank Scott Fritzgerald, The reader chuyển thể từ tác phẩm
best-seller của nhà văn Đức Bernhard Schlink và Revolutionary road chuyển
thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Mỹ Richard Yates. Thành công lớn
của phim No Country for Old men (chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà
văn Cormac McCarthy) tại Oscar 2008 và The Reader (chuyển thể từ tiểu
thuyết The Reader của Bernhard Schlink) tại Oscar 2009 khiến giới phê bình
phim ngày càng ấn tượng với phim chuyển thể từ tác phẩm văn học. Có khá
nhiều cuộc bình chọn liên quan đến phim chuyển thể, thu hút sự quan tâm của 1
Trong 81 bộ phim được trao giải Oscar cho Kịch bản chuyển thể hay nhất từ năm 1928 đến nay, có 50 bộ
phim được chuyển thể từ tiểu thuyết, 6 bộ phim được chuyển thể từ truyện ngắn, 17 phim được chuyển thể từ
kịch (thống kê theo tư liệu trên Wikipedia.org – Đ.T.N.Đ).
2
Đ.T.N.Đ thống kê (xem Phụ lục 1).
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
5
đông đảo khán giả, các nhà nghiên cứu – phê bình điện ảnh và báo giới: tờ
Celeb bình chọn “10 bộ phim xuất sắc nhất chuyển thể từ tác phẩm văn học”;
trang Premiere đưa ra tổng hợp “Top 10 bộ phim hay hơn sách”; Tạp chí Mỹ
Forbes công bố danh sách “những bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại
(tại thị trường Mỹ) được chuyển thể từ các cuốn sách bán chạy nhất”…
Những sự kiện, những con số thống kê đó đã phần nào nói lên vị trí quan
trọng của các phim chuyển thể từ tác phẩm văn học trong thành tựu chung của
nghệ thuật điện ảnh. Các tác phẩm văn học, đặc biệt là những cuốn sách best-
seller luôn là nguồn tư liệu hấp dẫn cho các đạo diễn điện ảnh, các nhà biên kịch.

từ tiểu thuyết tình báo cùng tên của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý),
Người đi tìm dĩ vãng (chuyển thể từ tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của nhà văn
Chu Lai), Đêm hội Long Trì (1989, được chuyển thể từ tác phẩm của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng), Tướng về hưu (1988) và Những người thợ xẻ (1998) -
chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp, Đời cát (1999,
chuyển thể từ truyện ngắn Ba người trên sân ga của Hữu Phương), Thời xa
vắng (2004, chuyển thể từ tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu), Mê
Thảo - Thời vang bóng (2003, chuyển thể từ tác phẩm Chùa đàn của Nguyễn
Tuân), Mùa len trâu (2004, dựa theo 2 truyện ngắn: Một cuộc biển dâu và
Mùa len trâu của nhà văn Sơn Nam), Trăng nơi đáy giếng (2008, chuyển thể
từ truyện ngắn cùng tên của nữ nhà văn Trần Thuỳ Mai), Chuyện của Pao
(2007, chuyển thể từ truyện ngắn Tiếng đàn môi bên bờ rào đá của nhà văn
Đỗ Bích Thuý), Cánh đồng bất tận (2010, chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên
của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư)…
Không chỉ điện ảnh lấy cảm hứng, chất liệu từ mạch nguồn phong phú
của kho tàng văn học, tiếp thu kinh nghiệm nghệ thuật và các thủ pháp biểu
hiện của văn học mà ngược lại “điện ảnh cũng làm thay đổi tiểu thuyết”.
Cùng với việc chuyển thể tác phẩm văn học thành phim và sự tham gia trực
tiếp của các nhà văn vào quá trình ấy, nghệ thuật điện ảnh cũng đang ảnh
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
7
hưởng không nhỏ tới cách viết, cách kể chuyện và cấu trúc tác phẩm … của
nhiều nhà văn hiện đại. Người ta thấy rõ: “các thủ pháp điện ảnh đã xâm nhập
vào địa hạt văn học và ngày càng chiếm một lãnh thổ rộng lớn”. Pied Buadeff
đã phải thốt lên: “điện ảnh đã bắt tiểu thuyết theo kĩ thuật của nó. Rất nhiều
thủ pháp sáng tác trở thành chung cho cả hai loại”.
Điện ảnh vừa “chịu ơn” các tác phẩm văn học, vừa có công chắp cánh
cho tác phẩm văn học thăng hoa trong thứ ngôn ngữ đa chiều đầy hấp lực của

rõ những nét tương đồng cũng như những đặc trưng riêng của nghệ thuật tự
sự văn học và nghệ thuật tự sự điện ảnh.
1.3. Bản thân người viết đã từng có thời gian tìm hiểu về những đặc
trưng của ngôn ngữ điện ảnh và ngôn ngữ văn học, về một “lối viết điện ảnh
trong văn học” như một hướng tìm tòi, đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết thế kỷ
XX qua khoá luận tốt nghiệp Chất điện ảnh trong văn học qua một số tiểu
thuyết của M.Duras. Với luận văn thạc sĩ, người viết mong muốn được tiếp
tục nghiên cứu mối quan hệ phức tạp, đa chiều giữa văn học và điện ảnh,
nghiên cứu về nghệ thuật tự sự văn học và nghệ thuật tự sự điện ảnh qua vấn
đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
Mối quan hệ mật thiết, đa chiều giữa văn học và điện ảnh là một thực
tiễn sống động, không thể phủ nhận: Văn học là nguồn chất liệu trực tiếp,
phong phú và vô cùng quan trọng của điện ảnh. Không chỉ lấy chất liệu từ văn
học về: cốt truyện, bối cảnh, nhân vật, tính cách, lời thoại…; điện ảnh còn tiếp
thu rộng rãi kinh nghiệm tự sự, các thủ pháp biểu hiện của văn học. Ngược lại,
phim chuyển thể không phải là sự sao chép tác phẩm văn học mà “chính nó
cũng tác động đến văn học bằng cách kiến giải tác phẩm, cũng như bằng sự
tác động vào phương thức thuật chuyện của văn học” [35, tr.144]. Nhiều thủ
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
9
pháp biểu hiện của điện ảnh không chỉ có trong kịch bản điện ảnh như một
đặc trưng thể loại mà còn thâm nhập vào các thể loại văn học khác đặc biệt là
tiểu thuyết và truyện ngắn… Khi phân tích mối quan hệ giữa văn học và điện
ảnh, tất cả các nhà lí luận đều khẳng định: bên cạnh quá trình điện ảnh hấp thụ
và cải tiến những kinh nghiệm nghệ thuật của văn học, một hiện tượng không
kém phần quan trọng là tác dụng ngược lại rất to lớn của điện ảnh đối với văn

Tại Khoa Văn học, trường ĐHKHXH&NV những năm gần đây cũng
có một số Khoá luận tốt nghiệp nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và
điện ảnh: Chất điện ảnh trong văn học qua một số tiểu thuyết của M.Duras -
Đỗ Thị Ngọc Điệp, năm 2006; Mật mã Da Vinci - Từ tiểu thuyết đến điện ảnh
(so sánh tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh) – Hà Thị Phượng, năm
2007; Kết cấu, người kể chuyện và không gian trong phim Rashomon của đạo
diễn Kurasawa dưới góc nhìn trần thuật học – Đoàn Thị Bích Thuỷ, năm
2008… Có thể nói, Khoa Văn học - trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội là cơ sở đầu tiên sớm chú ý đến nghiên cứu
mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng lẫn nhau giữa văn học và điện ảnh.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh từ góc nhìn tự sự
Hiện tượng chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh diễn
ra vô cùng sôi động trong thực tiễn đời sống văn hoá nghệ thuật. Tuy nhiên, ở
Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này một
cách có hệ thống. Có thể nói, vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh vẫn còn là vấn đề khá mới mẻ của lý luận phê bình văn học
cũng như điện ảnh Việt Nam. Nó chỉ được nhắc đến rải rác trong phần trả lời
phỏng vấn báo chí của các nhà biên kịch, đạo diễn - những người đã trực tiếp
tham gia vào quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh:
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
11
Phạm Thuỳ Nhân – không thích lối chuyển thể “coppy”!
(www. ngày 18/12/2007), Vì cùng tần số rung động (Thuỷ Lê,
Tạp chí Đẹp) Bài báo Tiểu thuyết và kịch bản điện ảnh chuyển thể từ tiểu
thuyết của tác giả Thane Rosenbaum (do Hà Linh dịch và đặt lại đầu đề) là
một trong số rất ít bài viết được đăng tải tại Việt Nam có bàn trực tiếp đến vấn
đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh với nhiều kiến giải

đã được dịch sang tiếng Việt làm tài liệu lưu hành nội bộ tại khoa Văn học –
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Công trình này đã cung cấp một số
gợi ý cho chúng tôi trong quá trình ứng dụng lý thuyết tự sự vào nghiên cứu
nghệ thuật điện ảnh.
Lý thuyết tự sự học đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam vào đầu thế
kỷ XXI và được nhiều nhà nghiên cứu đón nhận, ứng dụng vào nghiên cứu
các hiện tượng văn học, văn hoá. “Lý thuyết tự sự ngày nay đã cung cấp một
bộ công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất giúp cho người ta có thể đi sâu vào các
lĩnh vực nghiên cứu điện ảnh, giao tiếp, phương tiện truyền thông, nghiên cứu
văn hoá” [23, tr.11]. Tự sự học không chỉ được ứng rộng rãi trong nghiên cứu
nhiều bộ môn văn hoá nghệ thuật mà còn mở ra khả năng nghiên cứu so sánh
liên ngành, nghiên cứu so sánh quốc tế về phương diện tự sự, trở thành một
bộ phận của thi pháp học so sánh. Đây là cơ sở lý luận quan trọng giúp chúng
tôi tìm hiểu những tương đồng và khác biệt giữa nghệ thuật tự sự văn học và
tự sự điện ảnh - chìa khoá quan trọng để hiểu bản chất qúa trình chuyển thể
tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh là vấn đề rất rộng
và phức tạp. Luận văn của chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác
phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh từ góc nhìn tự sự, vận dụng lý thuyết tự
sự để tìm hiểu và lý giải quá trình chuyển thể tác phẩm văn học thành phim.
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
13
Lý thuyết tự sự học hiện đại chú ý đến cấu trúc tự sự, kết cấu của tầng
bậc trần thuật, mô hình trần thuật, ngôn ngữ tự sự, loại hình cốt truyện Đó là
những vấn đề trọng tâm của tự sự học giúp người nghiên cứu khám phá được
các tầng bậc ý nghĩa của tác phẩm. Dựa vào lý thuyết tự sự học, luận văn của
chúng tôi tìm hiểu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện

Mùa len trâu), tác giả văn học tự viết kịch bản chuyển thể cho tác phẩm của
mình (phim Thời xa vắng) và người khác viết kịch bản chuyển thể (phim Mê
Thảo thời vang bóng, Chuyện của Pao, Mùa len trâu), chuyển thể trung thành
với nguyên tác và chuyển thể có nhiều thay đổi so với nguyên tác Bên cạnh
đó, các bộ phim: Mê Thảo thời vang bóng, Thời xa vắng, Chuyện của Pao,
Mùa len trâu đều là những bộ phim của điện ảnh Việt Nam được đánh giá rất
cao về chất lượng nghệ thuật và đạt nhiều giải thưởng danh giá tại các Liên
hoan phim uy tín
3
. Không chỉ được khán giả và giới phê bình đánh giá là đã
chuyển thể từ tác phẩm văn học rất thành công, đạt chất lượng cao cả về nội
dung lẫn nghệ thuật mà bản thân các nhà văn – tác giả các tác phẩm văn học
gốc cũng rất hài lòng về “hình hài mới” của đứa con tinh thần của mình trong
ngôi nhà điện ảnh. Bởi vậy, qua phân tích và khảo sát các trường hợp trên,
chúng ta có thể có cái nhìn tương đối toàn diện về vấn đề chuyển thể tác phẩm
văn học lên màn ảnh (ở một số phương diện cơ bản nhất của nghệ thuật tự sự).
Trong quá trình phân tích, chúng tôi sẽ liên hệ, so sánh, đối chiếu với các phim
chuyển thể khác của Việt Nam và thế giới để làm rõ các luận điểm của mình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong luận văn:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp liên ngành 3
Xem Phụ lục 2, 3, 4 và 5
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)


Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
16
GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM

Tự sự học đã có từ xa xưa, từ thời của Platon và Aristote, nhưng phạm
vi quan tâm không ra ngoài giới hạn tu từ học. Tự sự học với tư cách là một
bộ môn khoa học chỉ thực sự ra đời vào năm 1969 qua công trình nghiên cứu
Ngữ pháp Câu chuyện mười ngày của T.Todorov. Từ đó ngành nghiên cứu tự
sự có tên chính thức (Narratology, Narratologie) và trở thành một khoa nghiên
cứu độc lập vì nội hàm văn hoá của nó.
Tự sự học là một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng. “Tự sự
học không đóng khung trong tiểu thuyết mà vận dụng cả vào các hình thức “tự
sự” khác như tôn giáo, lịch sử, điện ảnh, triết học, khoa học” [23, 12]. Nó là
một ngành văn hoá bởi vì các hình thức tự sự khác nhau có thể có chung với
nhau những nguyên tắc siêu tự sự.
Theo giáo sư Trần Đình Sử: “Bản chất của tự sự ngày nay được hiểu là
một sự truyền đạt thông tin, và tự sự có thể thực hiện bằng nhiều phương
thức, con đường” [23, 12]. “Tự sự là cách để ta đưa các sự việc vào một trật tự
và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa. Tự sự là cách tạo nghĩa cho sự
kiện, biến cố” (J.H.Miller). “Tự sự là phương thức chủ yếu để con người hiểu
biết sự vật” (Jonathan Culler).
Được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XX đến nay, tự sự học
hiện đại có thể chia làm 3 giai đoạn phát triển: Tự sự học trước chủ nghĩa cấu
trúc, tự sự học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa.
Nghiên cứu quá trình phát triển của lý thuyết tự sự, nhà lý luận tự sự
người Mỹ GeraldPrince chia làm ba nhóm:
Nhóm thứ nhất là các nhà tự sự chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức
chủ nghĩa Nga như V.Propp. Nhà nghiên cứu Greimas chú ý làm nổi bật lôgíc
của tự sự. Những người còn lại như Todorov, Barthes, Remak chú ý tới cấu
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
18
lăng kính tự sự ở ba phương diện tiêu biểu: cốt truyện, nhân vật và kết cấu.
Đây đều là những phương diện cơ bản và quan trọng của cả tự sự văn học và
tự sự điện ảnh. Nghiên cứu nghệ thuật tự sự trên ba phương diện trên sẽ giúp
chúng ta thấy rõ những tương đồng và khác biệt trong phương thức tự sự của
hai loại hình nghệ thuật.
Khái niệm tác phẩm văn học mà chúng tôi sử dụng trong luận văn chỉ
nhằm nói tới tác phẩm văn xuôi tự sự mà cụ thể là truyện ngắn và tiểu thuyết
(không bao gồm tác phẩm thuộc các thể loại trữ tình, kịch…). Khái niệm tác
phẩm điện ảnh được sử dụng để chỉ phim truyện nhựa/hay phim tự sự (không
bao gồm phim tài liệu, phim hoạt hình, phim ngắn, phim thử nghiệm…). Các
khái niệm chuyển thể, cải biên được sử dụng như những khái niệm tương đồng.

Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
20
Ở Việt Nam, trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên
(Nxb Đà Nẵng, 1997) định nghĩa: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện làm nòng
cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ phức tạp của tính cách nhân vật trong tác
phẩm văn học loại tự sự” [37, tr.206]. Theo cách hiểu này, tác giả muốn nhấn
mạnh: một là, cốt truyện là một hệ thống sự kiện; hai là, chỉ có tác phẩm tự sự
mới có cốt truyện. Tuy nhiên, đây chưa phải là một định nghĩa đầy đủ, đáp
ứng được yêu cầu của giới nghiên cứu phê bình văn học.
Với cách nhìn mang tính chuyên ngành, Từ điển Thuật ngữ văn học (Lê
Bá Hán chủ biên) đưa ra định nghĩa: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể
được tổ chức theo nhu cầu, tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ
phận cơ bản nhất, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học
thuộc loại tự sự và kịch. Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu của mọi tác
phẩm văn học. Trong các tác phẩm trữ tình, cốt truyện (với ý nghĩa chặt chẽ
nhất của khái niệm này) không tồn tại vì ở đây tác giả biểu hiện sự diễn biến
của tình cảm, tâm trạng” [38, tr.586].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân lại cho rằng: “Cốt
truyện là sự phát triển hành động, tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác
phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong các tác phẩm trữ tình” [36, tr.112].
Giáo trình Lý luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên, tập 2, phần “Tác
phẩm và thể loại văn học” đưa ra cái nhìn cụ thể về cốt truyện: “Cốt truyện là
một chuỗi các sự kiện được tạo dựng trong tác phẩm tự sự, kịch. Một số văn
bản trữ tình cũng có yếu tố cốt truyện. Khái niệm cốt truyện nhằm tách truyện
thành hai phần: một phần là chuỗi các sự kiện rất đặc trưng cho thể loại tự sự
và kịch, và một phần khác quan trọng không kém là các yếu tố miêu tả, lời kể,
lời bình. Thiếu các yếu tố này thì truyện không thể thành truyện” [20, tr.56].
Giáo trình Lý luận văn học do Phương Lựu chủ biên cũng khẳng định:

truyện tiểu thuyết… Xét theo kết cấu và quy mô nội dung, ta có cốt truyện
đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến. Xét theo phương diện nội dung, ta có cốt
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
22
truyện sự kiện và cốt truyện luận đề. Nếu xét theo tính chất của sự kiện trong
truyện thì lại có kiểu cốt truyện mang kịch tính cao và cốt truyện tâm lý…
1.2. Cốt truyện trong truyện ngắn và cốt truyện trong tiểu thuyết
Truyện ngắn và tiểu thuyết là hai thể loại tiêu biểu nhất của văn xuôi tự
sự. Đối với truyện ngắn và tiểu thuyết, cốt truyện là yếu tố cơ bản, quan trọng
trong cấu trúc tự tự của tác phẩm. Cốt truyện vừa là phương diện bộc lộ tính
cách nhân vật vừa là nơi nhà văn tái hiện các xung đột xã hội. Tuy nhiên, xuất
phát từ đặc điểm thể loại, cốt truyện truyện ngắn và cốt truyện tiểu thuyết có
những đặc trưng riêng khác biệt. Truyện ngắn là thể loại “tự sự cỡ nhỏ” (có
dung lượng phản ánh cuộc sống và số lượng câu chữ ít hơn nhiều so với tiểu
thuyết) cho nên mọi sự kiện, chi tiết… trong cốt truyện của một truyện ngắn
phải chặt chẽ, mang tính thống nhất cao. Do đặc trưng thể loại, truyện ngắn
không thể ôm trùm trong nó dung lượng hiện thực lớn, phong phú và phức tạp
như tiểu thuyết. Cốt truyện một truyện ngắn thường không thể đi hết những
diễn biến trong cả cuộc đời nhân vật mà chỉ tái hiện lại một giai đoạn ngắn,
thậm chí chỉ là một khoảnh khắc trong cuộc đời nhân vật. Yếu tố quan trọng
nhất làm nên sự hấp dẫn của truyện ngắn là tình huống truyện. Tình huống
truyện trong truyện ngắn chỉ là một lát cắt đời sống nhưng nó có giá trị phản
ánh hiện thực lớn lao. Thông qua tình huống truyện, tính cách và số phận nhân
vật được bộc lộ rõ nét; tư tưởng và tài năng nhà văn cũng được khẳng định.
Nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu, cốt truyện trong truyện ngắn chỉ như
một lát cắt ngang trên thân cây nhưng cái “lát cắt ngang” ấy lại nói lên cả “đời
sống 1000 năm thảo mộc”. Nhà văn, nhà hoạt động chính trị GS.Juan Bosch
cũng nhận xét: “Trong các thể loại văn học nói chung, truyện ngắn đóng vai

tuệ hoá văn xuôi đang diễn ra hiện nay khiến cho cốt truyện trở nên một thành
tố ít quan trọng trong văn xuôi”. Nhà văn Anđrê Malraux cũng cho rằng:
“Muốn cho nghệ thuật hiện đại ra đời thì cốt truyện cần phải mất đi bởi vì sẽ
xuất hiện một cốt truyện mới - sự hiện diện của người nghệ sĩ trong tác

Trích đoạn Vai trò của cốt truyện Khái niệm cốt truyện trong phim Đặc điểm cốt truyện phim Tiếp thu, bổ sung và cải biên về đường dây cốt truyện chính Tiếp thu, bổ sung và cải biên về chi tiết nghệ thuật
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status