Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 - Pdf 26

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - tự do - Hạnh phúc
**********************
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Tên đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có
lời văn cho học sinh lớp 1
Họ và tên : Nguyễn Thị Hải Yến
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trởng tổ 1 - Giáo viên giảng dạy
Lớp 1 Trờng tiểu học Thị Trấn A
A. Lý do chọn đề bài.
Trẻ em hôm nay
Thế giới ngày mai
Hiện nay đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới. Hệ thống giáo
dục cũng có những chuyển biến mạnh mẽ, để theo kịp tri thức chung
của nhân loại. Việc đào tạo thế hệ trẻ chiếm một vị trí hết sức quan
trọng, đặc biệt ở bậc tiểu học là phải coi trọng giáo dục toàn diện.
Việc dạy học môn Toán ở Tiểu học hiện nay là giúp học sinh hình
thành cơ sở ban đầu các kiến thức và kỹ năng về môn Toán (đã học
trong nhà trường) vào giải quyết những tình huống thường gặp trong đời
sống hàng ngày. Để giúp các em học tốt được môn toán thì mỗi người
giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo tài liệu đã có sẵn
trong sách giáo khoa trong sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một
cách rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động.
Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật
đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong
những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con
người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới
diễn ra hàng ngày.
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi mỗi giáo viên phải thường
xuyên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực
chủ động sáng tạo của học sinh. Vì vậy khi dạy phải gây được sự hứng

tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều
quan hệ với đời sống thực tế của học sinh.
Giúp học sinh chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có
hứng thú học toán.
Là một người giáo viên trực tiếp dạy lớp 1 và đặc biệt là dạy môn
toán, thực hiện chương trình đổi mới giáo dục toán học lớp 1 nói riêng ở
tiểu học nói chung. Tôi rất trăn trở và suy nghĩ nhiều để học sinh làm
sao làm được các phép tính cộng, trừ. Với dạng giải bài toán có lời văn
thì càng khó hơn đối với học sinh lớp 1. Nên tôi lựa chọn Một số biện
pháp rèn kĩ năng “ Giải toán có lời văn ở lớp 1.”
2. Mục đích nghiên cứu:
Với mong muốn cho học sinh biết cách giải các bài toán đơn về thêm
bớt một số đơn vị (giải bằng một phép cộng hoặc một phép trừ). Biết
trình bày bài giải gồm câu trả lời, phép tính và đáp số. Góp phần bước
đầu phát triển tư duy, khả năng diễn đạt đúng cho học sinh.
a. Thực trạng chung của nhà trường.
* Thuận lợi:
- Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của Ban
đại diện cha mẹ học sinh .
- Ban giám hiệu nhà trường năng động nhiệt tình, sáng tạo luôn quan
tâm chỉ đạo sát sao việc dạy- học của giáo viên và học sinh.
- Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình, sáng tạo, tâm huyết
với nghề .
- Về học sinh: Nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức học tập tốt.
Bên cạnh những thuận lợi trên, nhà trường còn gặp không ít khó
khăn.
* Khó khăn:
- Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc nên thiếu sự
quan tâm đến việc học hành của con em mình.
- Do tâm lý của học sinh tiểu học hiếu động, ham chơi nên việc học

Sau đó học sinh tập nêu câu trả lời:
“ Có tất cả 4 bạn”
Từ đó học sinh viết phép tính vào ô trống.
1 + 3 = 4
Tiếp đó cứ như thế đến tuần 16. Học sinh lớp tôi đã được làm quen
với việc đọc tóm tắt, rồi nêu đề toán bằng lời, sau đó nêu bài giải và tự
điền số vào phép tính thích hợp vào ô trống. Nhưng ở giai đoạn này đã
không còn tranh vẽ nữa.
Ví dụ: ở tiết 62: Bảng cộng và trừ trong phạm vi 10. Tôi đã cho HS
làm quen với giải toán ở học kỳ II.
Bài 3: Viết phép tính thích hợp:
a, Nhìn tranh nêu bài toán: Có 4 cái thuyền màu xanh, thêm 3 cái thuyền
màu trắng. Hỏi có tất cả bao nhiêu cái thuyền?
- Gọi vài em nhìn tranh nêu bài toán.
- Hỏi: Vâỵ các em đếm xem có tất cả mấy cái thuyền?
HS trả lời: 7 cái thuyền.
Muốn biết có 7 cái thuyền ta làm tính gì?
Ta làm tính cộng.
Lấy mấy cộng mấy?
Lấy 4 cộng với 3 bằng 7.
Cho Học sinh viết phép tính vào ô trống.
b, Trang 87.
Có: 10 quả bóng.
Cho: 3 quả bóng.
Còn: quả bóng.
Ở bài này không có tranh vẽ, tôi cho học sinh đọc kỹ tóm tắt. Dựa vào
tóm tắt học sinh có thể nêu đề toán bằng lời “Minh có 10 quả bóng,
Minh cho bạn 3 quả bóng. Hỏi Minh còn mấy quả bóng? ” HS nêu được
câu trả lời bằng lời : “Minh còn 7 quả bóng”
10 - 3 = 7

biết).
Nên đối với tiết này tôi chỉ giới thiệu 2 bộ phận của 1 bài toán.
- Những cái đã cho (dữ kiện).
- Cái phải tìm (câu hỏi).
Khi dạy tiết 84: Bài toán có lời văn tôi hướng dẫn học sinh làm
như sau:
Ví dụ: Bài 1 trang 115: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán.
Bài toán: có bạn, có thêm bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao
nhiêu bạn?
Trước tiên, tôi gọi 3 học sinh nêu yêu cầu bài (viết số thích hợp
vào chỗ chấm).
Tôi cho học sinh quan sát tranh vẽ. Gọi học sinh nêu miệng đề
toán. Rồi gọi học sinh nhận xét bạn nêu và cho học sinh điền số vào chỗ
chấm để được bài toán
“Có 1 bạn, thêm 3 bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn”.
Gọi vài học sinh đọc lại bài toán.
Tôi hỏi: Bài toán cho biết gì?
Học sinh trả lời: Có 1 bạn, thêm 3 bạn nữa.
- Cho học sinh nêu câu hỏi của bài toán: ( Hỏi có tất cả bao nhiêu
bạn?)
- Sau đó cho học sinh điền số thích hợp vào ô trống để có bài toán.
* Bài 2 tôi cũng hướng dẫn học sinh tương tự bài 1.
* Bài 3: Yêu cầu Viết tiếp câu hỏi để có bài toán:
Ở bài này tôi cho học sinh quan sát tranh rồi đọc dữ kiện bài toán: Có 1
gà mẹ và 7 gà con. Hỏi………………………………………
Gọi vài học sinh nêu tiếp câu hỏi bài toán. Rồi cho học sinh khác nhận
xét bạn nêu. Sau đó chốt bài đúng: Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?
- Giáo viên nhận xét, chốt câu hỏi đúng và gọn.
Ở bài 4 (trang 116) thiếu cả dữ kiện và câu hỏi.
Bài 4: Nhìn tranh vẽ viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán:

dấu? ở cuối câu.
Nhưng dù ở hình thức nào, dạng nào tôi cũng tập trung luyện cho học
sinh các kĩ năng: Tìm hiểu nội dung bài toán, tìm cách giải bài toán và kĩ
năng trình bày bài giải. Việc này được tiến hành cụ thể qua các bước
sau:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán.
Cho học sinh đọc kĩ đề toán, giúp học sinh hiểu chắc chắn một số
từ quan trọng nói lên những tình huống của bài toán.
Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo
viên hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở
trong bài toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách
đặt câu hỏi đàm thoại:
“Bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì ?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán.
Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng
phương pháp giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em
tìm hiểu, nhận xét nội dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu
được yêu cầu của bài toán và dựa vào câu hỏi của bài toán, các em nêu
miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài toán rồi cho các em tự trình
bày bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Tìm cách giải bài toán.
a. Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã
cho và cái phải tìm, cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp:
Chọn “ phép cộng” nếu bài toán cho biết “ nhiều hơn” hoặc “ cả hai”,
“ tất cả”. Chọn “tính trừ” nếu bài toán cho biết “bớt đi” hoặc “ cho,
bay đi, mất, hái ” .
Ví dụ: Khi dạy tiết 85: “Giải toán có lời văn”
Bài 1: An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả 2 bạn có mấy
quả bóng?
Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ

Con làm tính gì?
Tính cộng.
Mấy cộng mấy?
3 + 4
Ba cộng bốn bằng mấy?
3 + 4 = 7
Ta viết: “quả bóng” vào trong dấu ngoặc đơn.
3 + 4 = 7 (quả bóng).
Còn với đáp số thì không cần viết đơn vị trong dấu ngoặc đơn nữa.
Đáp số: 7 quả bóng.
Khi gặp bài toán về số đo độ dài tôi cũng hướng dẫn học sinh viết
các phép tính dưới dạng hư số.
Đoạn thẳng AB dài 3 cm và đoạn thẳng BC dài 6 cm. Hỏi đoạn
thẳng AC dài mấy xăng ti mét?
Ở bài này tôi cũng cho học sinh đọc kĩ bài toán và hỏi bài toán cho
biết gì? bài toán hỏi gì? Sau đó tôi hướng dẫn học sinh cách tóm tắt bài
toán bằng sơ đồ doạn thẳng. Từ đó học sinh nhìn vào sơ đồ đoạn thẳng
nêu bài toán.
A 3cm B 6cm C
? cm
Nhìn vào sơ đồ đoạn thẳng( hình vẽ) nên học sinh có thể tự làm bài
và viết được lời giải:
Độ dài đoạn thẳng AC là.
3 + 6 = 9 (cm).
Đáp số: 9 cm.
Tiếp theo đến tuần 28 học sinh lại được học: Giải toán có lời văn
để giúp học sinh củng cố kỹ năng giải các bài toán về bớt (bằng một
phép trừ) và biết trình bày bài giải gồm: Câu lời giải, phép tính, đáp số.
Qua các phương pháp tôi đã sử dụng để dạy phần: “Giải toán có lời
văn ở lớp 1.” Tôi thấy học sinh bước đầu biết được cách giải các bài

Mục đích
Luyện giải các bài toán có lời văn. Nâng cao cho các em có óc tư
duy và sự nhanh trí.
Chuẩn bị
Tôi vẽ mỗi tổ hai vòng tròn. Vòng thứ nhất đánh số 1 tượng trưng
cho cành cây trên: vòng thứ 2 đánh số 2 tượng trưng cho cành cây dưới.
Cách chơi:
Hai tổ cùng chơi dưới sự điều khiển của cô.
- Tôi hô: “Cành trên có 5 con chim”. Mỗi tổ cử ra 5 em nhanh chóng
chạy đến chỗ vòng 1 và đứng vào trong đó, đứng thành từng nhóm.
- Tôi lại hô tiếp: “Cành dưới ít hơn cành trên 3 con chim”. Thì mỗi
tổ tự cử ra 5 -3 = 2 em nhanh chóng chạy đến vòng thứ 2.
- Tôi lại hô: “ở cành trên 3 con chim bay đi và đến đậu ở cành dới”
thì mỗi tổ trong vòng tròn một ; 3 em sang nhập với nhóm ở của tổ
mình ở vòng tròn hai thành mỗi nhóm có 3 + 2 = 5 em.
- Tôi lại hô: “ở cành trên có thêm 2 con chim mới đến đậu” thì mỗi
tổ cử hai em đến nhập với hai bạn của tổ mình thành một nhóm có 2 + 2
= 4 em. Trong quá trình chơi , tổ nào tính đúng, cử người nhanh thì được
điểm cao. Tổ nào tính sai thì không được điểm nào. Cuối cùng tổ nào đ-
ược tổng số điểm cao tổ đó thắng cuộc
2. Trò chơi: Học tập bằng những câu truyện kể
Bên cạnh những trò chơi học tập và những câu đố vui. Tôi thường
xuyên thay đổi bằng cách kể cho các em nghe các câu chuyện có nội
dung toán học để các em biết xử lý thông minh trong các tình huống
phức tạp.
a.Truyện kể: Giúp nhau qua cầu.
Có một chiếc cầu rất hẹp chỉ một người đi được bắc qua một con
sông. Hai người bạn ở hai đầu cầu đều muốn qua cầu sang bờ bên kia.
Cả hai cùng vội, nên khi qua cầu họ chỉ chăm chú đi mà không để ý phía
bên kia có người đang đi đến. Sắp gặp nhau họ mới ngẩng lên nhìn thấy

Ngay từ đầu năm tôi đã tổ chức họp phụ huynh học sinh, hướng
dẫn cha mẹ học sinh một số phương pháp giúp con mình học tập. Là
giáo viên lớp 1, tôi không những chỉ dạy các em đọc, viết, làm toán mà
tôi còn thường xuyên kết hợp với phụ huynh học sinh hàng tuần, hàng
tháng để trao đổi tình hình học tập của từng em với phụ huynh và kết
hợp giữa nhà trường với phụ huynh để giúp các em học tốt hơn.
III. Kết quả:
Năm học: 2010 – 2011 này, qua các bài tập kiểm tra ở lớp và bài
buổi 2. Học sinh lớp tôi đều làm tốt các bài tập: “ Giải toán có lời văn”.
Đó cùng là sự thành công ban đầu của bản thân tôi. Những kết quả mà
các em đạt được sau những lần thi định kì do nhà trường ra đề đã cho
thấy công sức tôi bỏ ra đã có kết quả nhất định. Kết quả “Giải toán có lời
văn” ở lớp tôi đạt được kết quả như sau:
Cỏc
giai
on
s s Gii thnh
tho

%
K nng gii
chm
%
Cha nm
c cỏch
gii
%
Giữa
kì II
36 24 66,7% 8 22,2% 4

từ hoặc dùng tóm tắt để hỗ trợ học sinh đặt đề toán.
- Tăng cờng dạy bài giảng điện tử để tiết dạy sinh động giúp học
sinh có hứng thú khi học.
-Tăng cờng kỹ năng thực hành phiếu học tập.
- Chuyển một số bài thành trò chơi để thay đổi hình thức học tập
giúp học sinh củng cố kỹ năng thực hành, gây hứng thú học tập.
- Giáo viên cần chú ý hơn đến việc cung cấp cho học sinh những
kiến thức, kỹ năng cơ bản, thiết thực, có hệ thống trong sự hoàn chỉnh t-
ơng đối của các kiến thức và kỹ năng đó.
- Quan tâm đúng mức đến việc rèn kĩ năng diễn đạt, ứng xử, giải
quyết các tình huống có vấn đề.
- Phát triển năng lực t duy cho trẻ.
- Xây dựng đợc phơng pháp, hình thức học toán theo hớng tập
trung vào học sinh, giúp các em biết tự học toán có hiệu quả.
- Không nên vội vàng yêu cầu học sinh phải đọc thông, viết thạo đề
toán ngay từ bài đầu, giáo viên luôn luôn bình tĩnh rèn cho học sinh sẽ
đạt đợc yêu cầu.
V. Kết luận:
Đối với học sinh lớp một nội dung giải toán có lời văn chiếm một vị
trí rất quan trọng, nó là tiền đề để giúp các em học tốt hơn trong giai
đoạn tiếp theo. Là giáo viên giảng dạy lớp 1, tôi đem hết khả năng của
mình truyền thụ cho các em những kiến thức cơ bản nhất, phải kết hợp
hài hoà giữa các biện pháp giúp học sinh lĩnh hội kiến thức cần học vận
dụng vào nó để tạo bớc đêm cho các em học các lớp tiếp theo.
Trên đây là một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho
học sinh lớp 1 của tôi. Kính mong hội đồng khoa học đóng góp ý kiến và
bổ sung cho đề tài đợc hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Thị Trấn, ngày 19 tháng 5 năm 2011


Khá : 15 em Đạt: 48,4%
Trung bình : 7 em Đạt : 22,6 %
III/ Các hình thức khen thởng đã đợc ghi nhận:
- Danh hiệu khen thởng cao nhất đã đạt: Nhiều năm liền đạt chiến sĩ thi đua
cấp cơ sở

Ngời báo cáo thành tích
(ký, ghi rõ họ và tên)

Thủ trởng đơn vị xác nhận, đề nghị Nguyễn Thị Kim Cơng
(ký, đóng dấu)
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Ngày 20 tháng 5 năm 2011

Báo cáo thành tích cá nhân
Năm học: 2010 - 2011
Đề nghị khen: Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở
I/ Sơ lợc lý lịch:
- Họ và tên: Bùi Thị Kim Thoa nữ:
- Ngày 06 tháng 09 năm 1966
- Quê quán: Thị Trấn Quốc Oai - Quốc Oai - Hà Nội
- Nơi thờng trú: Thị Trấn Quốc Oai
- Đơn vị công tác: Trờng Tiểu học Thị Trấn Quốc Oai A
- Chức vụ hiện nay: Giáo viên
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Cao đẳng tiểu học
- Ngày vào Đảng chính thức: 10 - 3 - 1999
II/ Thành tích đạt đợc:
- Danh hiệu thi đua: Chiến sĩ thi đua cấp cơ c
- Nhiệm vụ đợc giao : Dạy lớp 2B

- Nhiệm vụ đợc giao : Dạy lớp 1B
Số liệu cụ thể:
Sĩ số: 36em
Giỏi : 21 em Đạt : 58,3 %
Khá : 11 em Đạt: 30,6%
Trung bình : 4 em Đạt : 11,1 %
Lớp đạt lớp tiên tiến
III/ Các hình thức khen thởng đã đợc ghi nhận:
- Danh hiệu khen thởng cao nhất đã đạt: Nhiều năm liền đạt chiến sĩ thi đua
cấp cơ sở

Ngời báo cáo thành tích
(ký, ghi rõ họ và tên) Thủ trởng đơn vị xác nhận, đề nghị Doãn Thị Nguyệt
(ký, đóng dấu)



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status