Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam trong điều kiện hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới - WTO - Pdf 28

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đều biết nước ta là một nước nông nghiệp là chủ yếu và hiện
đang trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thì nền nông nghiệp Việt Nam ngày càng
phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Đặc biệt, khi Việt Nam chúng ta đã là
thành viên chính thức của đại gia đình WTO thì đã và đang đặt ra nhiều cơ hội và
thách thức cho nền nông nghiệp Việt Nam. Trong sản xuất nông nghiệp, thì vấn đề
xuất khẩu nông sản Việt Nam đang là một trong những vấn đề khá bức xúc hiện
nay. Và cà phê hiện cũng là một trong số mặt hàng nông sản đó vì cà phê là mặt
hàng chủ yếu để xuất khẩu, là một trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam.
Nhưng vấn đề gây ra thắc mắc cho
chúng ta và những người dân, kiều bào ở
xa Tổ quốc là với vị trí xuất khẩu thứ 2 thế
giới chỉ sau Brazil nhưng tại sao cà phê
Việt Nam vẫn không có được thương hiệu
của riêng mình? Đây là câu hỏi đặt ra
không chỉ với những cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp và người trồng cà phê mà là
đối với tất cả chúng ta. Vậy, làm sao để nông sản Việt Nam nói chung và cà phê nói
riêng có thể đứng vững và cạnh tranh được trên thị trường thế giới cũng như trong
sân chơi WTO đó vẫn là câu hỏi lớn cho chúng ta.
Trước thực tế đó chính phủ cũng như bản thân các doanh nghiệp sản xuất, chế
biến và xuất khẩu Việt Nam đã đề ra các biện pháp, các chính sách cũng như chiến
lược để có thể ngày càng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên
trường quốc tế mà trong đó có cà phê.
Chính vì những lý do trên mà chúng em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp thúc
đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam trong điều kiện hội nhập vào tổ chức thương mại thế
giới - WTO”.
Hơn nữa, chúng em với tư cách là một sinh viên kinh tế thì chúng em cho rằng
việc tìm hiểu, nghiên cứu là rất cần thiết. Nó không chỉ giúp cho chúng em trong

Bộ…cùng với các cây trồng khác là cơ sở để phá thế độc canh của cây lương thực.
Như vậy, cây cà phê có vai trò và ý nghĩa kinh tế to lớn nhất định đối với nền
kinh tế cũng như đối với nông nghiệp và bản thân ngành trồng trọt.
II. Những vấn đề lý luận về xuất khẩu cà phê Việt Nam
Nói về xuất khẩu có rất nhiều định nghĩa được đưa ra, nhưng trong đó có một
định nghĩa đã được chấp nhận rộng rãi là: “Xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch
vụ ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ”.
Vậy, hàng hoá xuất khẩu được hiểu gắn với khái niệm thương mại hàng hoá-
theo quy ước của Liên Hợp Quốc và WTO là những sản phẩm hàng hoá hữu hình
hoặc gia công tại các cơ sở sản xuất, khu chế biến với mục đích để tiêu thụ tại thị
trường nước ngoài (xuất khẩu) đi qua hải quan.
Hàng hoá xuất khẩu là hàng hoá khác biệt so với hàng hoá tiêu dùng trong
nước. Những hàng hoá xuất khẩu phải đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của nước nhập và chất lượng hàng hóa phải đáp ứng được các thông số kĩ thuật, môi
trường… và có tính cạnh tranh cao.
1. Vai trò của xuất khẩu cà phê Việt Nam
Cà phê là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và có lịch sử phát triển lâu đời. Ở
nước ta lịch sử phát triển cây cà phê đã có từ hàng trăm năm. Cây cà phê đã được
các nhà truyền đạo Công giáo đưa vào trồng đầu tiên ở hai tỉnh Quảng Bình và
Quảng Trị, sau đó được nhân rộng sang các tỉnh khác. Tuy nhiên, chỉ sau khi đất
nước giải phóng hoàn toàn 1975 thì lúc này cây cà phê mới thực sự được quan tâm
chú trọng và bắt đầu phát triển với qui mô lớn theo hướng sản xuất hàng hoá. Đến
nay, cây cà phê đã có mặt gần như khắp các vùng đất nước và trở thành ngành sản
xuất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và là một trong nhóm 10 mặt hàng xuất
khẩu chính của Việt Nam. Và với vị trí đó việc xuất khẩu cà phê có một vai trò rất là
quan trọng như sau:
Một là, thông qua xuất khẩu cà phê có thể tăng thu ngoại tệ cho đất nước, giúp
cho nền kinh tế có được động lực phát triển mạnh mẽ, có thể khai thác lợi thế của

cà phê phù hợp với nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Chính vì vậy mà
ngành cà phê Việt Nam cũng cần phải có những bước đi mới để bắt kịp với xu thế
này.
 Xây dựng hệ thống thu mua sản phẩm: Đối với các sản phẩm nông sản
thì khi sản xuất ra nhưng để có thể tiêu thụ được không phải là vấn đề đơn giản,
trong trường hợp không thuận lợi thì người sản xuất luôn bị thiệt. Việt Nam chúng ta
thì cây cà phê được thừa hưởng những điều kiện tự nhiên thuận lợi nên dễ phát triển
với diện tích, sản lượng ngày càng tăng. Như vậy một vấn đề đặt ra đối với ngành cà
phê là làm sao gắn kết được giữa người sản xuất - chế biến - tiêu dùng. Từ đó, đòi
hỏi các doanh nghiệp cà phê phải tổ chức thu mua một cách đồng bộ có thể tập trung
thu mua về một mối là nơi có thế giao dịch giữa cả người mua và bán. Để có thể
đảm bảo cả về chất lượng cũng như số lượng và vừa ổn định được giá thu mua. Từ
việc thu mua này thì giúp cho người trồng cà phê vừa yên tâm cho việc sản xuất lại
không phải chạy đi giao bán cà phê khắp nơi, không bị ép giá đồng thời giảm được
chi phí vận chuyển cho người mua là không phải thu mua rải rác từ hộ gia đình,
trang trại.
 Vấn đề xây dựng thương hiệu cà phê: Theo quyết định số
253/03/QĐ_TT ngày 25/11/2003 của Thủ Tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án
xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia đến năm 2010 cho rằng: “ Xây dựng và
phát triển thương hiệu quốc gia là một chương trình xúc tiến thương mại quốc gia
dài hạn, nhằm xây dựng, quảng bá nhãn hiệu sản phẩm (hàng hoá, dịch vụ), tên
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thương mại chỉ dẫn địa lý,và tên gọi xuất xứ hàng hoá, được mang biểu trưng của
thương hiệu quốc gia trên thị trường trong và ngoài nước”. Và đối với doanh nghiệp
cà phê khi đã xây dựng được thương hiệu là một quá trình rất lâu dài trước hết
doanh nghiệp này phải có được sản phẩm cà phê chất lượng tốt - được sự tin cậy của
người tiêu dùng. Sau đó, doanh nghiệp này cần có chiến lược kinh doanh hợp lý thì
sẽ chiếm lĩnh được thị trường. Vậy thương hiệu cà phê có ý nghĩa gì? Thương hiệu
cà phê được thành lập nó có ý nghĩa rất lớn đối với từng doanh nghiệp. Trước hết,

có thể giải quyết được các tranh chấp (giá, mua - bán, thị trường,…) và có thể đảm
bảo được lợi ích cho cả hai bên tham gia. Trên cơ sở đó nhà nước có thể khuyến
khích cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp giúp các doanh nghiệp này đạt
được hiệu quả tốt nhất.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê như: chất lượng cà phê,
cơ cấu cà phê xuất khẩu, chính sách của chính phủ, quảng bá thương hiệu,...Nhưng
tựu chung lại có thể xem xét ở hai nhóm nhân tố sau:
3.1. Nhân tố bên trong
 Các nhân tố ảnh hưởng đến sản lượng cà phê
Đối với sản xuất nông nghiệp thì đất và nước là hai yếu tố cơ bản và cần thiết.
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế được, không thể có sản xuất
nông nghiệp khi không có đất. Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với tài nguyên
đất ở nước ta khá đa dạng như: đất phù sa, đất ferarit là 2 loại đất chiếm diện tích lớn
nhất ngoài ra còn có đất đỏ bazan, một loại đất rất thích hợp với việc trồng cà phê
được phân bố rộng khắp lãnh thổ. Tuy nhiên, tập trung nhều ở Tây Nguyên với 1,36
triệu ha (chiếm 66% diện tích đất đỏ bazan của cả nước) và ở Đông Nam Bộ.
Song song với đó là được thừa hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng mưa
phân bố đều các tháng trong năm, đặc biệt là những tháng cà phê sinh trưởng (tháng
3, tháng 4). Như vậy, ở Việt Nam đã tụ hội những điều kiện cho cây cà phê phát
triển.
Bên cạnh những điều kiện khách quan mang lại cho cây cà phê, thì còn các
điều kiện chủ quan đó là: giống tốt, trình độ chuyên môn của người trồng, kỹ thuật
chăm sóc...hay là sự tăng trưởng của nền kinh tế. Vì khi mà những điều kiện kinh tế
- xã hội được cải thiện thì mới có thể quan tâm đầu tư cho sự phát triển cây cà phê
về vốn, kỹ thuật, khoa học công nghệ…
 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cà phê
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trước tiên, chúng ta cần phải xem xét kỹ thuật canh tác và giống cũng như các

8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Muốn nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia thì phải phát triển hoàn thiện 5 tiêu chí
đó.
Xem xét một cách toàn diện thì năng lực cạnh tranh của quốc gia có ảnh hưởng
rất lớn đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Khi sức cạnh tranh yếu thì nó sẽ
cản trở và không hỗ trợ và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá. Theo tổ chức diễn
đàn thế giới thì Việt Nam xếp hạng 81/117 nền kinh tế có chỉ số cạnh tranh toàn cầu
năm 2005, hạng 80 về cạnh tranh kinh doanh, hạng 92 về năng lực hoạt động của
các cơ quan công quyền.
 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu
Vấn đề này nó được xem xét qua sự tăng doanh số nhưng quan trọng hơn là xem
xét thị phần chiếm lĩnh. Như vậy nếu doanh nghiệp có sức cạnh tranh sẽ tạo được
chỗ đứng cho hàng hoá của mình. Đối với các doanh nghiệp mà đặc biệt là các
doanh nghiệp xuất khẩu thì điều đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Trong sản xuất kinh doanh có một qui luật quan trọng nếu nhà doanh nghiệp nào
nhận ra và ứng dụng được thì sẽ gặt hái được nhiều thành công. Qui luật đó đòi hỏi:
nơi nào đông nhà kinh doanh thì phải tìm đến thị trường mới còn trống vắng để kinh
doanh “vắng thì tìm đến, đông thì tránh xa”. Điều đó minh chứng là các hãng nổi
tiếng là các hãng nổi tiếng trên thế giới đều đã mở rộng đến các nước, Châu Á, Châu
Âu, Phi, Mỹ, tìm kiếm những thị trường còn ít đối thủ cạnh tranh hoặc còn trống
chưa ai đến, chưa ai dám đến.
Nếu như các doanh nghiệp có hàng hoá chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, đạt tiêu
chuẩn an toàn, sản xuất với chi phí thấp hạ giá thành ngoài ra xây dựng, quảng bá
được thương hiệu… khi đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng hoá của mình đồng
thời mở rộng được thị trường xuất khẩu, tạo sự ổn định cho hàng hoá của doanh
nghiệp mình. Đối với cà phê thì hiện nay ở Việt Nam cũng có thương hiệu cà phê
cũng rất nổi tiếng đó là thương hiệu cà phê Trung Nguyên cũng là một thành công
với chiến lược này.
 Năng lực cạnh tranh của chính sản phẩm xuất khẩu

với các sản phẩm nông sản của nước ta (trong đó có cà phê) vào các thị trường này.
4. Tác động của hội nhập đối với nền kinh tế và yêu cầu cho hàng nông sản
Việt Nam
4.1. Tác động của hội nhập đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Xu thế tự
do hoá, toàn cầu hoá làm cho không gian thị trường rộng mở, các rào cản sẽ dần bị
xoá bỏ, tạo điều kiện cho các nước tăng cường hoạt động thương mại và đầu tư phát
triển. Lợi ích lớn nhất mà Việt Nam thu được từ việc hội nhập là tăng cường tiềm
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lực kinh tế thông qua việc đẩy mạnh hoạt động xuất - nhập khẩu, thu hút đầu tư, đổi
mới công nghệ, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước, hình thành một môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng giữa các loại
hình doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nước ngoài.
Về trung hạn, hội nhập kinh tế sẽ góp phần tăng vốn đầu tư nước ngoài đang
giảm sút hiện nay, nhanh chóng phục hồi nhịp độ tăng trưởng kinh tế, nhất là tới khi
hội nhập hoàn toàn. Trong đó, phần quan trọng của mức gia tăng này là nhờ đẩy
mạnh xuất khẩu.
Gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam sẽ bị tổn thương hoặc bị tấn công bởi
những hành vi bảo vệ mậu dịch hoặc trừng phạt kinh tế của các quốc gia khác trong
trường hợp có tranh chấp kinh tế, thương mại hay những lý do chính trị nào đó, thị
trường cho hàng hoá của Việt Nam sẽ được mở rộng và ổn định hơn.
Tuy nhiên, tư cách thành viên WTO không chỉ mang lại những lợi ích kinh tế,
mà nó cũng đặt nền kinh tế quốc dân và chính phủ phải đối mặt với những thách
thức lớn.
Thứ nhất, toàn bộ thể chế kinh tế phải được chuyển đổi nhằm thích ứng với sự
phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại và đầu tư, chuyển giao công nghệ,
nếu không sẽ gặp khó khăn trước những đối thủ cạnh tranh hùng mạnh, các doanh
nghiệp Việt Nam có thể sẽ không được bảo vệ khi xảy ra tranh chấp thương mại.
Thứ hai, những vấn đề nảy sinh từ việc thúc đẩy nhanh chóng tiến trình cải

trợ nhằm giảm đi các tiêu cực đối với các Quốc gia đang phát triển. Một minh chứng
cho hiện tượng này là sự kiện bán phá giá tôm Việt Nam trên thị trường Mỹ.
- Cắt giảm hỗ trợ sản xuất nông sản để làm giảm gánh nặng về mặt tài chính
đối với các nước phát triển.
Cuối cùng là nhằm nâng cao vai trò và vị thế của WTO trong việc giải quyết
tranh chấp về vấn đề sản phẩm nông nghiệp giữa các nước thành viên. Với các vấn
đề và nội dung đưa ra trên thì các cam kết mở rộng thị trường nông sản AOA được
tập trung vào ba lĩnh vực chủ yếu: tiếp cận thị trường, hỗ trợ sản xuất nội địa, trợ cấp
xuất khẩu.
+ Tiếp cận thị trường: Hiệp định nông nghiệp quy định các thành viên phải tạo
điều kiện cho hàng hóa của các thành viên khác tiếp cận thị trường nội địa thông qua
việc cắt giảm thuế nhập khẩu, thuế hoá các rào cản phi thuế quan và mở cửa thị
trường tối thiểu.
+ Hỗ trợ sản xuất nội địa: Hiệp định nông nghiệp quy định những khoản hỗ trợ
có ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại quốc tế thì phải cắt giảm, trong khi đó những
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hỗ trợ của chính phủ kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển nhưng không bóp
méo thương mại quốc tế thì không phải cắt giảm.
+ Trợ cấp xuất khẩu: Hiệp định nông nghiệp quy định các quốc gia thành
viên phải cắt giảm trợ cấp xuất khẩu. Các nước không được phép tăng cường trợ cấp
và xây dựng các biện pháp trợ cấp xuất khẩu mới.
III. Cơ sở thực tiễn: Tình hình sản xuất, xuất khẩu cà phê trên thế giới và
kinh nghiệm của ngành cà phê Brazil
1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê trên thế giới
Theo dự báo của tổ chức cà phê quốc tế (IOC), sản lượng cà phê thế giới dự
đoán tăng trung bình 1,3%/năm trong thời kỳ 2001 - 2010. Tuy vậy, nhịp độ tăng
trưởng sẽ khác nhau giữa các nước sản xuất. Ở những nơi có điều kiện tự nhiên
thuận lợi, đất đai nhiều, lao động rẻ, tăng sản xuất và có những chính sách ưu đãi đối
với cà phê, dự đoán diện tích và sản lượng sẽ tăng. Những nước này gồm:

Còn sản lượng cà phê Châu Á – Châu Đại Dương niên vụ 2005/2006 ước
tính tăng 5% so với vụ trước. Trong đó lượng cà phê Arabica ước tính tăng 4,84%
và sản lượng cà phê Robusta giảm 0,3% điều đó thể hiện ở
bảng sau:
Bảng 3: Sản lượng cà phê Châu Á - Châu Đại Dương niên vụ 2004/2005 và
2005/2006.
Đơn vị (triệu bao, mỗi bao: 60kg)
Niên vụ 2005/2006 Niên vụ 2005/2006
Tổng cộng 28,587 29,799
- Arabica 4,084 4,072
- Robusta 24,549 25,727
1. Việt Nam 14,549 13,500
2. Inđônêxia 7,536 8,657
3. Ấn Độ 4,592 4,567
4. Pupua Newguila 0,977 1,267
5. Thái Lan 0,884 1,000
6. Các nước khác 0,404 0,808
Nguồn: ICO (Hiệp hội cà phê thế giới)
Vụ cà phê 2006/2007 tổng cung cà phê thế giới đạt 146,9 triệu bao, tăng gần
7% so với ước tính của vụ 2005/2006. Với nguồn cung gia tăng xuất khẩu cà phê thế
giới được phục hồi, đạt 92,8 triệu bao tăng 7,2 triệu bao so với vụ 2005/2006. Trong
đó Brazil chiếm 27,75 triệu bao tăng 3,7 triệu bao, xuât khẩu cà phê Việt Nam tăng
1,3 triệu bao, Pêru tăng 1,1 triệu bao, Mêxico tăng 900.000 bao.
Về nhu cầu tiêu thụ: cà phê thế giới bình quân tăng khoảng 2%/năm. Đặc biệt
nhu cầu cà phê vối sẽ tăng nhiều hơn so với cà phê chè. Dự kiến nhu cầu cà phê thế
giới 2010 khoảng 7 triệu tấn.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về giá cả: theo dự báo của Mỹ và IOC, giá cà phê thế giới nhìn chung sẽ tăng
do sự hạn chế cung cà phê của hiệp hội các nước sản xuất cà phê thế giới (ACPC) và

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ba là, chính phủ Brazil muốn ngành công nghiệp chế biến cà phê của mình đi
theo hướng xuất khẩu cà phê chế biến mới do đó đang có kế hoạch hỗ trợ cho các
nhà máy chế biến mới.
Bốn là, cũng như một số quốc gia sản xuất cà phê hàng đầu khác, Brazil đã bắt
đầu nhận thức được những thuận lợi trong việc đẩy mạnh tiêu dùng cà phê trong
nước và hiện cũng tích cực khuyến khích điều này. Brazil không chỉ là nước sản
xuất cà phê đứng đầu thế giới mà còn được xếp thứ 2 sau Mỹ trong việc tiêu thụ cà
phê. Hiện nay, Brazil tiêu thụ 13 triệu bao mỗi năm, chiếm khoảng 40% sản lượng
trung bình hàng năm của nước này. Nếu tính theo đầu người, trung bình mỗi người
Brazil uống 4,9 kg cà phê mỗi năm. Ngành cà phê Brazil đã đặt mục tiêu đưa lượng
tiêu thụ nội địa tăng thêm 1,5 triệu bao mỗi năm thông qua các chương trình quảng
cáo và khuyến mại, đẩy con số bình quân đầu người lên 5,3 kg/năm.
2.2. Colombia
Là nước xuất khẩu cà phê thứ 2 thế giới sau Brazil, khối lượng cà phê xuất
khẩu của Colombia chiếm 14% thế giới. Giá cà phê của Colombia tương đối cao so
với cà phê khác trên thế giới. Đối với Colombia xuất khẩu cà phê là nguồn thu ngoại
tệ lớn thứ 2 sau dầu mỏ.
Ở Colombia hiện có trên 3000 nông trại từ 1 đến 100ha trung bình 3.4ha/nông
trại. Cà phê của Colombia nổi tiếng là cà phê chè dịu, rửa sạch đạt chất lượng cao
“100% Colombia”. Liên đoàn cà phê Colombia là cơ quan giám sát và quản lý toàn
bộ hoạt động kinh doanh cà phê cả thị trường trong và ngoài nước. Trong hơn 60
năm thì tổ chức này đống vai trò quan trọng và có ảnh hưởng đến các lĩnh vực quản
lý và ban hành các chính sách về cà phê. Khoảng 50% – 60% sản lượng cà phê của
vụ được nông dân bán trực tiếp cho liên đoàn ở mức giá thấp hoặc là bán cho người
xuất khẩu ở mức giá cao hơn chút ít so với liên đoàn khi thị trường cho phép. Việc
xuất khẩu cà phê do liên đoàn và tư nhân thực hiện, các nhà xuất khẩu tư nhân thì
chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Mỹ, còn liên đoàn có xu hướng xuất khẩu sang
Châu Âu.
16


có đèo Hải Vân nằm trong
dãy núi Bạch Mã, cuối dãy Trường Sơn, nằm ngang ra đến biển
tạo nên một bức tường thành cao trên 1000 m ngăn gió mùa Đông
Bắc và chia địa lý khí hậu Việt Nam thành hai miền. Miền địa lý
khí hậu phía nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm rất thích hợp với cà phê vối
Rusbuta. Miền khí hậu phía Bắc có mùa đông lạnh và có mưa phùn thích hợp với cà
phê Arabica.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội.
2.1. Nguồn nước tưới tiêu
Cùng với đất, nước là yếu tố ảnh hưởng khả năng khai thác của nông nghiệp,
chi phối tính chất mùa vụ cũng như năng suất và sản lượng cây cà phê. Số mưa lý
tưởng 1000 - 1200mm trong một năm ở hai đồng bằng lớn không chỉ cung cấp
nguồn nước quý giá mà còn cung cấp nguồn phâm đạm thiên nhiên dễ hấp thụ.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài ra dòng chảy mặt trên lãnh thổ khoảng 300 tỷ m
3
cùng hệ thống kênh rạch,
sông ngòi chằng chịt đã đảm bảo chất lượng nước tưới tiêu cần thiết cho việc trồng
cà phê.
2.2. Về nguồn nhân lực
Việt Nam là nước với trên 75% lao động hoạt động làm trong lĩnh vực nông
nghiệp. Đây chính là lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu cà phê ở nước ta. Hàng năm
số lao động này được bổ sung khoảng 1,3 triệu người bước vào độ tuổi lao động.
Bên cạnh vấn đề giải quyết sức ép về giải quyết việc làm thì đây chính là lợi thế về
nguồn nhân lực Việt Nam. Chúng ta luôn có một lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ
với chất lượng tương đối cao so với nền nông nghiệp kém phát triển. Lợi thế này rất
có khả năng đảm bảo sự phát triển xuất khẩu cà phê trong tương lai.
2.3. Về vị trí địa lý và cảng khẩu

Với tổng diện tích đạt trên 500.000 ha và sản lượng trên 10 triệu tấn mỗi năm,
cà phê hiện nay được xếp sau gạo trong danh mục hàng nông sản xuất khẩu của Việt
Nam. Để đạt được sản lượng cao như vậy, ngành cà phê Việt Nam thu hút được
khoảng 300 nghìn hộ gia đình với trên 600 nghìn lao động, đặc biệt vào tháng 3 thu
hoạch con số này có thể lên tới 700.000 - 800.000. Như vậy, số lao động của ngành
cà phê đã đạt 7,83% tổng số lao động của toàn quốc nói chung và 2,93% tổng số lao
động trong ngành nông nghiệp nói riêng.
1.2. Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê Việt Nam
Cách đây 25 năm, vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra với nhưng bước
khởi đầu rầm rộ, chủ yếu là tại địa bàn 2 tỉnh Đăclăk và Gia Lai Kom Tum. Ở Tây
Nguyên vào thời gian này, cả nước mới chỉ có không đầy 20.000 ha tăng trưởng
kém, năng suất thấp, với sản lượng chỉ khoảng 4.000 - 5.000 tấn. Đế nay vào năm
2000 cả nước có 500.000 ha cà phê, hầu hết sinh trưởng khoẻ năng suất cao, tổng
sản lượng đạt 80 vạn tấn. Những con số đó vượt xa mọi suy nghĩ, mọi mục tiêu
chiến lược của ngành. Diện tích cà phê ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh vào nửa cuối
thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Đến nay, năm 1992 giá cà phê thế giới tụt xuống rất thấp
do các nước sản xuất cà phê trên thế giới tung lượng cà phê tồn kho từ những năm
trước do tổ chức cà phê thế giới quốc tế còn áp dụng chế độ hạn ngạch xuất khẩu.
Sau năm 1992 giá cà phê lại phục hồi dần đạt tới đỉnh cao năm 1994, 1995. Lúc này,
người nông dân, gia đình cán bộ công nhân viên ở Tây Nguyên và cả những người ở
thành phố Nha Trang đến thành phố Hồ Chí Minh xô đi tìm đất, mua vườn làm
trang trại trồng cà phê, dẫn đến sản lượng cà phê qua từng năm. Nhưng sau đó vào
năm niên vụ 2000/2001 thì giá cà phê lại giảm mạnh chỉ còn hơn 400 USD/tấn và
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngay lập tức phản ứng của người dân đã phá bỏ cà phê để trồng các cây khác làm
diện tích cà phê bắt đầu giảm từ 556.000 ha niên vụ 2000/2001 còn 491.100 niên vụ
2005/2006. Và đến niên vụ vừa qua thì diện tích cà phê lại tăng trên 500.000 ha. Ta
có thể thấy sự biến động quá nhanh của ngành cà phê Việt Nam qua con số diện
tích, sản lượng và năng suất cà phê sau:

20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
truyên sản xuất sao chép của nhà máy cơ khí 1/5 Hải Phòng, nhà máy A74 Bộ Công
Nghệ ở Thủ Đức – Tp Hồ Chí Minh. Gần đây, nhiều công ty, nông trường đã xây
dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ Đức và Brazil.
Một loạt hơn chục dây truyền chế biến cà phê của hãng Pinhalense - Brazil được đưa
vào Việt Nam. Tiếp đó, lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở Công
Nghệ Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến công nghệ của Brazil.
Cơ sở chế biến với thiết bị mới, chất lượng sản phẩm khá được xây dựng
trong vòng 5,7 năm trở lại đây đảm bảo chế biến được khoảng 150.000 tấn đến
200.000 tấn cà phê nhân xuất khẩu.
Hiện nay, sản lượng cà phê chủ yếu là cà phê vối Rusbuta với phương pháp
chế biến chủ yếu là chế biền khô, cà phê thu hái về được phơi khô nhờ tận dụng
năng lượng mặt trời. Đối với những năm mưa kéo dài trong vụ thu hoạch người ta
phải sấy trong các lò sấy đốt bằng than đá, củi…cũng có một số doanh nghiệp dùng
máy đánh nhớt một phần nhỏ sản lượng cà phê là cà phê Arabica các doanh nghiệp
nhà nước đều chế biến theo phương pháp ướt. Không ít nơi dùng máy chọn màu
Sarbex trong khâu phân koại, loại bỏ cà phê hạt đen, nâu…góp phần nâng cao chất
lượng cà phê.
Về chất lượng, Việt Nam đã có một sản lượng cà phê khá lớn với phẩm chất
thơm ngon vốn có của giống nội địa. Tuy nhiên, cà phê hạt xuất khẩu lai không có
chất lượng tương xứng và vì vậy thua thiệt về giá cả sản xuất so với các nước khác.
Một thời gian dài trước đây, công nghệ chế biến cà phê không được quan tâm đầy
đủ, có sự thiếu sót về nhận thức, có khó khăn về vốn đầu tư, trình độ thấp kém chậm
đổi mới…Làm cho tổn thất sau thu hoạch khá lớn (không dưới 10%) và có những
cơ sở sản xuất tổn thất nghiêm trọng thất thu hàng chục tỷ đồng vì chất lượng hạt
xấu. Mặt khác, hơn 80% cà phê sản xuất ra là từ hộ nông dân sản xuất nhỏ thiếu điều
kiện sơ chế tối thiểu. Đồng thời, cà phê xuất khẩu nước ta chủ yếu là cà phê nhân,
thô chưa thật sự là cà phê thành phẩm nên giá trị xuất khẩu chưa cao.
1.4. Chi phí sản xuất, chế biến, vận chuyển cà phê Việt Nam xuất khẩu

người dân cũng tăng đáng kể. Sự kích thích của giá cả cũng đã thúc đẩy cà phê Việt
Nam phát triển nhanh chóng và mắt trái của tác dụng đó là dẫn đến sự phát triển
vượt mục tiêu của kế hoạch, ngoài tầm kiểm soát của ngành cà phê.
Bản kế hoạch về cà phê đầu tiên xây dựng năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà
phê Việt Nam chỉ có 180.000 ha với 200.000 tấn. Sau nhiều điều chỉnh con số đó
cũng chỉ lên tới 350.000 ha với 450.000 tấn nhưng thực tế hoàn toàn khác. Những
con số thống kê điều tra vào năm 2000 cho thấy diện tích cà phê cả nước lên tới
trên 500.000 ha với sản lương 900.000 tấn đưa Việt Nam lên vị trí thứ 2 thế giới về
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản xuất cà phê. Đây là một con số gây bất ngờ cho nhiều người cả trong ngành cà
phê Việt Nam. Nó góp một phần đáng kể vào việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị
trường đẩy giá cà phê về mức thấp nhất trong thời gian mấy chục năm qua, trong đó
ngành cà phê Việt Nam chịu thiệt thòi vì sản lượng cà phê xuất khẩu lớn nên thua lỗ
ngày càng nhiều.
Xem xét tình hình về lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu từ niên vụ 1997/1998
đến 2006/2007 có thể thấy sự tăng trưởng nhanh chóng về lượng xuất khẩu của cà
phê cùng với sự giảm sút nhanh chóng về giá cả.
Bảng 5: Sản lượng xuất khẩu, đơn giá bình quân và kim ngạch xuất khẩu của
cà phê Việt Nam qua các năm:
Niên vụ Xuất (tấn) Kim ngạch
(triệu USD)
Đơn giá BQ
(USD/MT)
1997/1998 395.481 500 1.521,0
1998/1999 404.206 593,8 1.373,0
1999/2000 653.678 585,3 823,0
2000/2001 874.676 381,9 436,6
2003/2004 749.400 504,9 673,7
2004/2005 877.600 641,0 772,9

2000 dù giá cà phê giảm nhưng nhờ lượng xuất khẩu tăng nhanh nên kim ngạch
xuất khẩu cà phê vẫn giữ ổn định ở mức cao: năm 1998 bằng 593,8 triệu USD, năm
1999 bằng 585,3 triệu USD và năm 2000 giá cà phê giảm sút mạnh nhưng nhờ sản
lượng tăng 72% nên kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt trên 500 triệu USD, năm 2002 đạt
317 triệu USD và niên vụ 2005/2006 đạt 735,5 triệu USD.
Đặc biệt, theo Intimex-News ngày 2/1/2007 cho rằng: “Giá trị kim ngạch xuất
khẩu cà phê đạt 2006 đạt 950 triệu USD”. Trung tâm thông tin thương mại (Bộ
thương mại ) cho biết: Sau khi giảm nhẹ vào giữa tháng 10, từ đầu tháng 11 đến nay,
giá cà phê xuất khẩu Việt Nam đã tăng khoảng 40 USD/tấn. Hiện nay, giá cà phê
xuất khẩu 5% đen và vỡ hoại 2 giao dịch ở mức 1.425 - 1.430 USD/tấn. Như vây,
giá xuất khẩu cà phê của nước ta đã bám sát thế giới hiện chỉ thấp hơn 20USD/tấn
so với giá giao dịch tại thị trường London, so với mức chênh lệch có lúc lên đến trên
400USD/tấn hồi tháng 8 trên thị trường nội địa, giá thu mua cà phê nhìn chung vẫn
ổn định. Do vậy, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 950 triệu USD. Đó là
một trong những thành công lớn nhất của cà phê xuất khẩu Việt Nam.
2.1.2. Cơ cấu cà phê, chủng loại xuất khẩu của Việt Nam
 Về cơ cấu cà phê xuất khẩu Việt Nam thì cà phê vối (Robusta) chiếm tỷ
trọng quá lớn - nước ta là nước có khối lượng cà phê Robusta xuất khẩu lớn nhất thế
giới với 98% tổng khối lượng xuất khẩu. Trong khi đó, trên thị trường thế giới, khối
lượng cà phê chè (Arabica) chiếm khoảng 65% còn cà phê Robusta chỉ chiếm 35%.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về giá cả, cà phê Arabica thường có giá trị cao hơn nhiều so với cà phê Robusta,
thông thường gấp từ 2,25 lần. Sự chênh lệch về giá cả cà phê Arabica và cà phê
Robusta ngày càng cao: năm 1995, giá cà phê Arabica là 3.240USD/tấn còn cà phê
Robusta là 2.820USD/tấn (gấp 1,15 lần ) thì đến năm 1999, giá tương ứng là
1.628USD/tấn và 624USD/tấn (gấp 2,61 lần). Thời giá tháng 7/2005, trong khi giá
cà phê Arabica là 2.681USD/tấn thì giá của cà phê Robusta là 1.112USD/tấn, tức
gấp 2,41 lần.
 Về cơ cấu chủng loại cà phê xuất khẩu, cho tới nay, Việt Nam chủ yếu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status