Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống cúc và biện pháp kỹ thuật sản xuất hoa cúc Pha Lê tại Hữu Lũng - Lạng Sơn - Pdf 30


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRẦN THỊ DUYÊN

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG CÚC VÀ
BIỆN PHÁP KỸ THUẬT SẢN XUẤT HOA CÚC
PHA LÊ TẠI HỮU LŨNG - LẠNG SƠN NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG
MÃ SỐ: 60.62.01.10 LUẬN VĂN THẠC SỸ
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG THỊ TỐ NGA

ii
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của
các thầy cô Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Để bày tỏ lòng biết ơn, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên đã cho tôi cơ hội tham gia khoá đào tạo thạc sỹ khoá
k20 Khoa học cây trồng của Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Đặng Thị Tố Nga đã hướng dẫn tận tình trong
suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo công tác tại Phòng quản lý đào
tạo sau Đại học đã giảng dạy, chỉ bảo, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, tôi xin trân trọng cảm ơn các đồng nghiệp, anh em bè bạn và gia
đình đã tạo điều kiện về thời gian, vật chất và tinh thần cho tôi trong thời gian học tập và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn Trần Thị Duyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ iv
2.4. Các biện pháp kỹ thuật áp dụng 27
2.5. Phương pháp xử lý số liệu 28
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29
3.1. Kết quả nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và chất lượng hoa
của một số giống hoa cúc tại Lạng Sơn 29
3.1.1. Khả năng sống sau trồng của các giống hoa cúc trồng
tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 29
3.1.2. Khả năng sinh trưởng của các giống hoa cúc trồng tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 29
3.1.3. Các giai đoạn sinh trưởng phát triển của 5 giống hoa cúc trồng thí nghiệm 32
3.1.4. Ảnh hưởng của giống đến tình hình sâu hại của hoa cúc 33
3.1.5. Hiệu quả kinh tế 35
3.2. Kết quả nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng đến sinh trưởng
phát triển và chất lượng hoa của giống cúc Pha Lê tại Lạng Sơn 36
3.2.1 Đặc điểm sinh trưởng, phát triển và nở hoa của cúc Pha Lê tại
các thời điểm trồng khác nhau 37
3.2.2. Ảnh hưởng của thời điểm trồng đến tỷ lệ nở hoa, chất lượng hoa cúc Pha Lê 38
3.2.3. Ảnh hưởng của thời điểm trồng đến tình hình sâu, bệnh hại
hoa cúc Pha Lê vụ Đông Xuân 2013-2014 tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 41
3.2.4. Hiệu quả kinh tế 42
3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng
và phát triển hoa cúc Pha Lê 43
3.3.1. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tỷ lệ sống hoa cúc Pha Lê
trồng tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 43
3.3.2. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến động thái tăng trưởng chiều cao của
hoa cúc Pha Lê trồng tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 44

đến động thái ra lá của hoa cúc Pha Lê trồng tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 66
3.5.3. Ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích sinh trưởng Gibber 4T
đến các giai đoạn sinh trưởng phát triển của hoa cúc Pha Lê 68
3.5.4. Ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích sinh trưởng Gibber 4T
đến năng suất, chất lượng của hoa cúc Pha Lê 69
3.5.5. Ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích sinh trưởng Gibber 4T
đến tình hình sâu hại của hoa cúc Pha Lê 71
3.5.6. Hiệu quả kinh tế 74
Chƣơng 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 76
4.1. KẾT LUẬN 76
4.2. ĐỀ NGHỊ 76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ vi
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVTV
Bảo vệ thực vật
CCC
Chiều cao cây
CT
Công thức
Đ/c
Đối chứng
TV
Thời vụ
ĐK hoa
Đường kính hoa

hoa cúc Pha Lê trồng tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 44
Bảng 3.12: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến động thái ra lá hoa cúc Pha Lê
trồng tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 46
Bảng 3.13: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến các giai đoạn sinh trưởng phát triển
hoa cúc Pha Lê 49
Bảng 3.14: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất, chất lượng của 50
hoa cúc Pha Lê 50
Bảng 3.15: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tình hình sâu,
bệnh hại hoa cúc Pha Lê 52
Bảng 3.16: Hiệu quả kinh tế trồng giống cúc Pha Lê ở các công thức thí nghiệm 53
Bảng 3.17: Ảnh hưởng của nồng độ phân bón lá Đầu trâu 502 đến động thái
tăng trưởng chiều cao hoa cúc Pha Lê trồng tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 55
Bảng 3.18: Ảnh hưởng của nồng độ phân bón lá Đầu trâu 502 đến động thái
ra lá của hoa cúc Pha Lê trồng tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ viii
Bảng 3.19: Ảnh hưởng của nồng độ phân bón lá Đầu trâu 502 đến các giai đoạn
sinh trưởng phát triển của hoa cúc Pha Lê 59
Bảng 3.20: Ảnh hưởng của nồng độ phân bón lá Đầu trâu đến năng suất,
chất lượng của hoa cúc Pha Lê 61
Bảng 3.21: Ảnh hưởng của nồng độ phân bón lá Đầu trâu 502 đến tình hình sâu,
bệnh hại của hoa cúc Pha Lê 62
Bảng 3.22: Hiệu quả kinh tế trồng giống cúc Pha Lê ở các công thức thí nghiệm 64
Bảng 3.23: Ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích sinh trưởng Gibber 4T
đến động thái tăng trưởng chiều cao của hoa cúc Pha Lê 65
trồng tại Hữu Lũng - Lạng Sơn 65
Bảng 3.24: Ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích sinh trưởng Gibber 4T
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoa là một trong các loại cây trồng nông nghiệp có vai trò quan trọng trong
đời sống con người. Khi đời sống ngày càng nâng cao thì nhu cầu sử dụng hoa càng
lớn. Hoa không những đem lại cho con người sự thoải mái khi thưởng thức vẻ đẹp
của chúng mà nó còn là sản phẩm thiết yếu được dùng trong các dịp lễ tết, hội
nghị… Chính vì vậy hoa không chỉ mang lại giá trị tinh thần cho con người mà còn
mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc nước ta có điều kiện tự nhiên như
đất đai, khí hậu… rất thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây hoa cúc.
Hiện nay, khi đời sống ngày càng được nâng cao thì nhu cầu thẩm mỹ ngày càng
lớn, vì vậy với sự phát triển kinh tế của tỉnh Lạng Sơn, nhu cầu hoa ở đây trong
những năm tới ngày một tăng cao. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để
phát triển, mở rộng sản xuất hoa, cây cảnh trên địa bàn.
Hiện nay một số diện tích trên địa bàn tỉnh đã chuyển đổi sang mô hình mới
như trồng hoa và một số loại cây trồng khác. Tỉnh đã hình thành một số vùng sản
xuất hoa, cây cảnh mang tính chuyên canh. Tuy nhiên sản xuất hoa còn gặp nhiều
khó khăn như đất đai phân tán nhỏ lẻ, nguồn lao động dồi dào nhưng số lao động có
hiểu biết về hoa cây cảnh còn ít, cơ sở hạ tầng yếu kém, ngoài những khó khăn trên
thì vấn đề về kỹ thuật trong sản xuất hoa cây cảnh cũng là một trong những khó
khăn không nhỏ. Người dân vẫn còn sản xuất theo phương pháp truyền thống và
dựa vào kinh nghiệm là chính, ít áp dụng các biện pháp kỹ thuật như sử dụng chất
kích thích sinh trưởng, bón phân qua lá … nên năng suất, chất lượng hoa vẫn còn
thấp, mẫu mã chưa được đẹp và bắt mắt, chủng loại và hình dáng hoa chưa phong
phú nên chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
Hoa cúc là giống cây trồng mới được trồng ở địa phương, các biện pháp kỹ
thuật trồng, chăm sóc phù hợp với điều kiện tự nhiên tại đây chưa được nghiên

- Bổ sung một số giống hoa mới vào cơ cấu chủng loại hoa phục vụ sản xuất
hoa tại Lạng Sơn.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quy
trình trồng, chăm sóc cho giống hoa cúc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về cây hoa cúc
Cây hoa cúc có tên khoa học là Chrysanthemum sp. có nguồn gốc từ Trung
Quốc, Nhật Bản và một số nước châu Âu. Chen. J (1985) [30] đã chứng minh rằng
cúc đã được trồng ở Trung Quốc cách đây 500 năm trước công nguyên. Ngày nay,
cúc đã được trồng hầu khắp các nước trên thế giới như Hà Lan, Ý, Đức, Pháp, Nhật
Bản. Ở Việt Nam, hoa cúc đã được trồng từ lâu, người Việt Nam coi hoa cúc là biểu
tượng của sự thanh cao, là một trong 4 loài thảo mộc được xếp vào hàng tứ quý
“Tùng, cúc, trúc, mai” hoặc “Mai, lan, trúc, cúc”.
Theo Võ Văn Chi, Lê Khả Kế (1969) [1], trong hệ thống phân loại thực vật
hoa cúc được xếp vào lớp hai lá mầm (Dicotyledonec), phân lớp cúc (Asterydae),
bộ cúc (Asterales), họ cúc (Asteraceae), phân họ giống hoa cúc (Asteroideae), chi
Chrysanthemum. Theo Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến (1978) [2] điều tra hiện nay
thì chi Chrysanthemum ở Việt Nam có 75 giống 200 loài và trên thế giới có tới
20.000 loài và trên 1.000 giống. Theo Trần Hợp (1993) [7], trong đó có 4 loài thông
dụng nhất, được sử dụng nhiều nhất để chơi hoa, làm cảnh đó là: C. morifolium; C.
maximum; C. coronarium; C.indicum.
1.2. Nguồn gốc lịch sử phát triển cây hoa cúc
Theo tài liệu cổ Trung Quốc thì hoa cúc có cách đây 3.000 năm. Trong văn
thơ Hán cổ hoa cúc có 30 đến 40 tên gọi khác nhau như: Nữ hoa, Cam hoa, Diên

đó; một số giống này vẫn còn duy trì và được trồng đến ngày nay.
Theo Amagasa K, Kameya T. (1989) [ 23], lịch sử phát triển nghề trồng cúc
ở châu Âu muộn hơn Trung Quốc. Năm 1843 một nhà thực vật học R. Fortune
(người Anh) đến Trung Quốc khảo sát và mang về giống hoa cúc Chusan Daisy,
giống này chính là giống bố mẹ của giống hoa cúc hình cầu và hình tán xạ ngày
nay. Năm 1889 nước Pháp nhập từ Trung Quốc 3 giống hoa cúc đại đoá về trồng và
đến năm 1827 Bernet (người Pháp) đã thành công trong việc lai tạo ra một số giống
cúc mới, từ đó dẫn đến một sự cải tiến rất mạnh mẽ về giống cúc ở châu Âu.
Từ đầu thế kỷ XVIII hoa cúc đã được trồng ở Mỹ, nhưng phải đến năm 1860
hoa cúc mới trở thành hàng hoá và được trồng trong nhà lưới. Hiện nay ở Mỹ, hoa
cúc là loại hoa rất quan trọng, chủ yếu là để cắt cành, một phần trồng trong chậu.
1.3. Đặc điểm thực vật học của cây hoa cúc
- Rễ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 5
Theo Nguyễn Xuân Linh (1998) [11] rễ cây hoa cúc thuộc loại rễ chùm, chỉ
khi cây thực sinh còn nhỏ mới có rễ chính thức rõ ràng. Đầu chóp rễ có sức phân
nhánh mạnh, trong điều kiện đất thích hợp thì rất nhanh hình thành bộ rễ có nhiều
nhánh, điều đó có lợi cho sự hút nước và dinh dưỡng. Rễ của các cây nhân từ
phương pháp vô tính đều phát sinh từ thân và đều là rễ bất định. Thân cúc bất kể ở
đốt hay giữa lóng đều rất dễ hình thành rễ bất định, vì vậy cây hoa cúc là một loại
cây rất dễ nhân giống từ thể dinh dưỡng.
- Thân
Cây hoa cúc thuộc loại thân thảo có nhiều đốt giòn, dễ gãy, khả năng phân
cành mạnh. Thường là những giống cúc đơn thân mập thẳng, giống cúc chùm thân
nhỏ và cong. Vanderkamp (2000) [49] cho rằng thân đứng hay bò, cao hay thấp, đốt
dài hay ngắn, sự phân cành mạnh hay yếu còn tuỳ thuộc vào từng giống. Cây có thể

yếu thực hiện bằng phương pháp nhân giống vô tính.
+ Quả: Theo Anderson (1988) [22] và Ishiwara (1984) [32] quả cúc thuộc loại
quả bế khô, hình trụ hơi dẹt, trong quả chứa rất nhiều hạt. Hạt có phôi thẳng và
không có nội nhũ.
1.4. Yêu cầu ngoại cảnh và dinh dƣỡng của cây hoa cúc
1.4.1. Nhiệt độ
Cây hoa cúc có nguồn gốc ôn đới nên ưa khí hậu mát mẻ, nhiệt độ thích hợp
cho cây cúc sinh trưởng, phát triển tốt từ 15 đến 20
0
C, cúc có thể chịu được nhiệt độ
từ 10 đến 35
0
C, nhưng trên 35
0
C và dưới 10
0
C sẽ làm cúc sinh trưởng, phát triển
kém. Deong (1984) [30], Hoogeweg (1999) [31] và Karlson (1989) [34] cho rằng,
nhiệt độ tối thích cho sự ra rễ của cúc là 16
0
C, nên trong điều kiện miền Bắc Việt
Nam việc giâm cành cúc trong mùa Hè là hết sức khó khăn nếu không có biện pháp
kỹ thuật tác động phù hợp như tưới tiêu, bảo vệ thực vật và điều chỉnh hợp lý một
số yếu tố: nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm bằng phương pháp nhân tạo.
Trên cơ sở phản ứng ra hoa của cúc với nhiệt độ, Kawata (1987) [35] đã chia
thành 3 nhóm. Loại cúc có thể ra hoa ở bất kỳ nhiệt độ nào, trong khoảng từ 10 đến
27
0
C nhưng tốt nhất ở 17
0

trong điều kiện ngày ngắn, chồi hoa hình thành ở nhiệt độ >15
0
C. Còm nhóm ra hoa
mùa Đông dù trong điều kiện ngày ngắn, nhưng nếu nhiệt độ cao sẽ ức chế sự phát
triển của chồi hoa. Riêng nhóm ra hoa mùa Hè, chồi thường hình thành ở nhiệt độ
10
0
C trong điều kiện ngày trung tính.
Theo Hoogeweg (1999) [31], thời gian chiếu sáng 11 giờ cho chất lượng hoa
cúc tốt nhất, nhưng nếu ở nhiệt độ cao vẫn ức chế sự ra hoa nên vào những năm
nóng ẩm sự ra hoa của cúc sẽ gặp khó khăn hơn mặc đù điều kiện ánh sáng có thể
đã phù hợp. Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy độ dài ngày có ảnh hưởng tới sự
ra hoa của cúc, vào thời kỳ ra hoa, cây yêu cầu thời gian chiếu sáng là 10 giờ, nhiệt
độ thích hợp là 18
0
C, nếu thời gian chiếu sáng dài sẽ kéo dài thời gian sinh trưởng
của cây, cây cao, lá to và ra hoa muộn.
1.4.3. Độ ẩm
Shewell Cooper (1975) [45] và Vidalie (1986) [51] cho rằng, độ ẩm đất từ 60
đến 70% và độ ẩm không khí 75 đến 80% là rất thuận lợi cho cúc sinh trưởng. Nếu
độ ẩm trên 80% cây phát triển mạnh nhưng lá dễ bị mắc một số bệnh nấm. Đặc biệt
vào thời kỳ thu hoạch, hoa cúc cần thời tiết khô ráo. Nếu độ ẩm không khí quá cao
sẽ làm cho hoa lá bị thối dập, cây dễ đổ non, gây khó khăn cho việc thu hoạch.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 8
1.4.4. Đất đai
Do cúc có bộ rễ ăn ngang, rễ phát triển mạnh và nhiều rễ phụ nên đất thích


9
sản xuất chính là Hà Lan 800 triệu cành/năm, Colombia 600 triệu cành/năm, Ý 500
triệu cành/năm và liên bang Mỹ 300 triệu cành/năm.
Trong các nước châu Á thì hiện nay Nhật Bản là nước dẫn đầu về sản xuất
hoa cúc, khoảng 200 triệu cành mỗi năm phục vụ cho tiêu dùng nội địa và xuất
khẩu. Mỗi năm sản lượng cúc đạt 26 tỷ yên, chiếm 27% diện tích trồng hoa ở Nhật
(Shibata và Kawata, 1987) [46].
Theo Narumon (1988) [38], Roberson (1990) [42], Thái Lan cũng là nước
sản xuất hoa cúc tương đối mạnh. Hiện nay ở Thái Lan, cúc được trồng quanh năm
với sản lượng là 50.841.500 cành cắt/năm, đạt năng suất 101.700 cành/Rai (theo tỉ
giá 25 bath = 1USD và 1bath = 6,25Rai).
Ở Trung Quốc, theo Blabjerg (1997) [24], Yangxiaohan (1997) [53], cúc là
một trong 10 loại hoa cắt quan trọng chỉ sau hồng và cẩm chướng, chiếm khoảng
20% tổng số hoa cắt trên thị trường bán buôn ở Bắc Kinh và Côn Minh. Vùng sản
xuất chính là Quảng Đông, Thượng Hải và Bắc Kinh.
Ở Malaixia, cúc chiếm 23% trong tổng số hoa cắt, các giống mới chủ yếu
nhập từ Hà Lan như Reagan yellow, Reagan dark. Việc sản xuất hoa cúc có nhiều
tiến bộ trong việc cải tiến chế độ dinh dưỡng, sử dụng quang chu kỳ, phòng trừ sâu
bệnh hại và công nghệ sau thu hoạch để nâng cao phẩm chất hoa (Limhengjong
Mohd (1997) [36].
1.5.2. Tình hình sản xuất và phát triển hoa cúc ở Việt Nam
Hiện nay, nhiều chủng loại hoa cúc đã được trồng phổ biến ở khắp nước ta.
Một số vùng sản xuất chính là Hà Nội, Hải Phòng, Sapa, Thành phố Hồ Chí Minh
và tỉnh Lâm Đồng, trong đó Đà Lạt là nơi lý tưởng cho việc sinh trưởng và phát
triển của hầu hết các loại hoa cúc. Theo Dadlani (2000) [29], Đà Lạt có đất đai phù
hợp, khí hậu thuận lợi, người dân có truyền thống trồng hoa, nên một số công ty
nước ngoài đã lập doanh nghiệp hoặc liên doanh để sản xuất hoa, riêng tỉnh Lâm
Đồng đã có 4 công ty như Nhật Bản, Thái Lan ở Bảo Lộc; Đài Loan ở Di Linh;
Chánh Đài Lâm ở Đức Trọng và Hasfarm ở Đà Lạt với 100% vốn nước ngoài

gấp 2 đến 3 lần giá nội địa, đạt doanh thu lên 3,6 tỷ đồng (Đặng Văn Đông,
2000)[3]. Điều này cho chúng ta thấy ý nghĩa quan trọng của việc xuất khẩu hoa
sang các nước, mở ra một triển vọng mới cho việc xây dựng các vùng sản xuất hoa
với chất lượng cao.
Cùng với giống cúc Vàng Đài Loan, từ năm 1998 đến nay, giống hoa cúc
mới CN 98 đã thực sự bổ sung vào cơ cấu trồng cúc quanh năm thay vì trước đây
chỉ có cúc vào mùa Đông. Hai giống chủ lực vào mùa Hè không thể thay thế các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 11
giống khác đó là CN93, CN98 và mùa Đông là một số giống như CN97, Vàng Đài
Loan… và một số giống cúc Chi của Singapo và Hà Lan. Tuy nhiên, trong mấy năm
trở lại đây, hàng loạt các giống cúc khác nhau đã được nhập về một cách ồ ạt mà
một số giống đã không qua trồng khảo nghiệm để đánh giá một cách khoa học đã
đưa ra trồng ngoài sản xuất nên gặp phải rủi ro là cây ra hoa ngay khi còn nhỏ.
Để nâng cao năng suất, chất lượng hoa cắt thì bên cạnh yếu tố về giống, phân
bón, công tác bảo vệ thực vật, chúng ta cần nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật tác
động. Chẳng hạn, giống Cúc Vàng Đài Loan, CN97 … là những giống thích hợp vụ
Đông Xuân, nhưng để nâng cao chất lượng hoa cắt cần tác động biện pháp kỹ thuật
như điều khiển quang chu kỳ, sử dụng chất kích thích sinh trưởng… hay biện pháp
giâm cành kết hợp nuôi cấy mô trong khâu kỹ thuật nhân nhanh giống cúc.
Như vậy, có thể thấy rằng: việc sản xuất và phát triển hoa cúc ở nước ta có
nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó cũng gặp không ít khó khăn. Để phát triển ngành
sản xuất hoa nói chung và hoa cúc nói riêng thì cần có sự kết hợp giữa 3 nhà: nhà
nước cần có các chính sách về hỗ trợ vốn đầu tư sản xuất, các nhà khoa học chuyên
môn cần nghiên cứu tìm ra các biện pháp kỹ thuật tác động nhằm nâng cao năng
suất, phẩm chất hoa để từ đó chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật đến
người sản xuất.

0
C ảnh hưởng đến màu sắc
chất lượng của hoa.
Theo nghiên cứu của Runkle, Heins, Cameron, Carlson (1998) [43] muốn để
cho hoa của giống cúc Snow nở hoa hoàn toàn, tập trung với số lượng lớn cần phải
xử lý lạnh 5
0
C trong vòng 6 tuần, sau đó xử lý ánh sáng ngày dài lớn hơn hoặc bằng
10
h
xử lý quang gián đoạn 4
h
đêm.
Các tác giả Van Ruiten, De Jong (1984) [52], Okada(1994) [40] cũng cho
rằng: sự ra hoa của cây cúc ngoài ảnh hưởng của quang chu kỳ, còn chịu ảnh hưởng
của nhiệt độ. Nhiệt độ không chỉ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nụ mà còn ảnh
hưởng đến sự phân hoá và phát dục của hoa cúc. Nụ được phân hoá nếu gặp nhiệt
độ thấp, quá trình phát dục sẽ bị chậm nên hoa cũng nở muộn. Thời gian nở hoa
sớm hay muộn tuỳ thuộc vào chế độ nhiệt và đặc tính di truyền của giống.
Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ tới sự ra hoa của các giống cúc tại
châu Âu, Karlsson [34] chia cúc ra làm 3 nhóm:
- Nhóm không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ: trong phạm vi từ 10 đến 27
0
C,
nhiệt độ không ảnh hưởng gì đến sự phân hoá và phát dục của hoa. Nhưng nhiệt độ
cao hơn hoặc thấp hơn nhiệt độ trên sẽ ức chế sự ra hoa.
- Nhóm giống bị nhiệt độ thấp ức chế ra hoa: bình thường chúng bắt đầu phân
hoá mầm hoa từ 16
0
C trở lên, nhiệt độ thấp hơn 16

(1989) [39], đã nhận thấy rằng nồng độ 1000ppm khi xử lý ở các kiểu cúc chùm và
cúc đơn cho hiệu quả tốt nhất so với các nồng độ 3000ppm và 8000ppm.
.
Mặc dù cây hoa cúc đã được trồng ở nước ta từ rất lâu, nhưng các kết quả
nghiên cứu về cây hoa này vẫn còn hạn chế. Trước năm 1992 các nghiên cứu chủ
yếu tập trung vào việc tập hợp các kinh nghiệm trồng hoa và phân loại cúc. Từ năm
1993 trở lại đây, cùng với sự xuất hiện của các giống cúc nhập nội mới thì đã có rất
nhiều các nghiên cứu về cây hoa này ở các lĩnh vực khác nhau.
1.6.2.1. Nghiên cứu về giống
Hoa cúc được du nhập vào nước ta từ thế kỷ 15, đến đầu thế kỷ 19 đã hình
thành một số vùng chuyên trồng cúc, các vùng trồng nổi tiếng hiện nay như Hà nội,
TP Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Hải Phòng.
Từ năm 1993 đến 1999 một số giống cúc nhập nội đã được chọn lọc và
khẳng định được về vị thế trên thị trường hoa cắt như: CN93 (cúc Trắng) được nhập
từ Nhật Bản về, được chọn lọc và được đưa ra sản xuất từ trung tâm Hoa và cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 14
cảnh Viện Di truyền nông nghiệp (DTNN). Đây là giống có ưu điểm phù hợp với
điều kiện khí hậu nước ta có thể trồng nhiều vụ trong năm, hoa to màu sắc đẹp, cành mập
thẳng, thời gian sinh trưởng ngắn, độ bền hoa cắt lâu. Ngoài ra một số giống nhập nội đang sử
dụng trong sản xuất như: CN97, CN98…là kết quả nghiên cứu, khảo sát, chọn lọc, đánh giá
những đặc điểm nông sinh học, năng suất, phẩm chất của Viện DTNN
Để lựa chọn được những giống hoa cúc phù hợp với điều kiện phía Bắc
Việt Nam, từ năm 1995 Viện Nghiên cứu Rau quả đã tiến hành trồng thử nghiệm
các giống hoa mới nhập nội, kết quả đã chọn được những giống hoa có năng suất,
chất lượng cao như giống CN07-6, Vàng Đông, Chi Trắng, Chi Vàng, Thọ Đỏ, Đỏ
Nhung, Tím Sen, Pha Lê

- Cúc Đại Đoá Vàng: Còn gọi là Hoàng Long Chảo, cây cao 60 đến 80cm,
thân yếu phải có cọc đỡ, dạng hoa kép to, đường kính 8 đến 10cm, cánh dày xếp
không chặt, khả năng chịu rét kém nhưng chịu hạn tốt, thời gian sinh trưởng dài từ 5
đến 6 tháng.
- Cúc Kim Tử Nhung: Cây cao 50 đến 60cm, thân cứng, lá dài to, răng cưa
sâu có màu xanh đậm, hoa kép to đường kính 8 đến 10cm, hoa có màu vàng nghệ
pha đỏ nâu, thời gian sinh trưởng dài nhưng khả năng chịu rét rất tốt. Ra hoa vào
dịp Tết Nguyên đán.
* Những giống cúc mới nhập nội
- Cúc CN93: Là giống cúc trắng nhập nội, được chọn lọc và đưa ra sản xuất
từ Trung tâm hoa cây cảnh - Viện Di truyền nông nghiệp. Đây là giống có giá trị
kinh tế cao. Thân mập thẳng, lá to xanh, hoa kép to có đường kính từ 10 đến 12cm
cánh dày xếp sít chặt, hoa bền, thời gian cắm lọ trên 2 tuần. Thời gian sinh trưởng
ngắn, có thể trồng được nhiều vụ trong năm. Năm 1996 giống này đã được công
nhận là giống quốc gia và hiện nay được phát triển rất rộng rãi khắp các tỉnh.
- Cúc CN97: Là giống cúc được nhập nội, chọn lọc và đưa ra sản xuất từ
trung tâm Hoa cây cảnh - Viện Di truyền nông nghiệp. Cây cao 55 đến 65 cm, thân
to mập, lá xanh dày, hoa kép màu trắng sữa, cánh dày đều, xếp sít chặt, đường kính
hoa 10 đến 12cm, khả năng chịu rét tốt.
- Cúc CN98: Là giống cúc được nhập nội, chọn lọc và đưa ra sản xuất từ
Trung tâm Hoa cây cảnh – Viện Di truyền nông nghiệp. Giống cúc CN98 có các đặc
điểm giống như cúc CN 93. Cây cao thẳng từ 60 đến 70 cm, hoa to bền mầu vàng
chanh, thời gian sinh trưởng ngắn từ 2,5 đến 3 tháng, chịu nóng tốt. Giống cúc CN

Trích đoạn Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tình hình sâu hại hoa cúc Pha Lê Ảnh hưởng của nồng độ phân bón lá Đầu trâu 502 đến động thá Ảnh hưởng của nồng độ phân bón lá Đầu trâu 502 đến các giai đoạn Ảnh hưởng của nồng độ phân bón lá Đầu trâu 502 đến tình hình sâu, Ảnh hưởng của nồng độ chất kích thích sinh trưởng Gibber 4T
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status