Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống nhãn trên vùng đất bạc màu việt yên bắc giang - Pdf 80


bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học nông nghiệp I Vũ Thị Tâm

đánh giá khả năng sinh trởng,
phát triển của một số giống nhãn
trên vùng đất bạc màu
việt yên - bắc giang luận văn thạc sĩ nông nghiệp

luận văn thạc sĩ nông nghiệp

Chuyên ngành: Kỹ thuật trồng trọt

Mã số: 4.01.01 Ngời hớng dẫnkhoa học: TS. Đoàn thế l hà nội, năm 2004

2Lời cam đoan

- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là trung thực và cha hề đợc sử dụng để bảo vệ một học vị
nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho sự thực hiện luận văn
này đã đợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
đợc chỉ rõ nguồn gốc. Vũ Thị Tâm

Tôi xin chân thành cảm ơn Nhà giáo u tú Tiến sĩ Nghiêm Xuân
Hội, Ban Giám hiệu Trờng Cao đẳng Nông - Lâm cùng toàn thể các
đồng nghiệp của nhà trờng, đã tạo điều kiện giúp đỡ và động viên tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Nhà giáo u tú Vũ Hữu Thinh nguyên
Hiệu trởng Trờng Trung học Kĩ thuật Nông nghiệp Trung ơng đã
dịch giúp tôi tài liệu cây ăn quả tiếng Trung Quốc.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan hữu quan, các bạn bè đồng
nghiệp và gia đình đã dìu dắt giúp đỡ động viên tôi hoàn thành luận văn
này.

Hà Nội, ngày 20 tháng 9 năm 2004 Vũ Thị Tâm

4
danh mục các chữ viết tắt trong luận văn

HC: Hơng chi
LG: Nhãn lồng
ĐA: Đại Ô Viên
LH: Lồng hạt
NXB: Nhà xuất bản

1. Mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Gần đây nền kinh tế nớc ta phát triển khá mạnh, vấn đề lơng thực đã
đợc giải quyết, sản xuất cây ăn quả đợc chú ý hơn, diện tích trồng cây ăn
quả tăng nhanh. Cùng với một số cây ăn quả khác: xoài, hồng, cam, vải...cây
nhãn (Euphoria longana) là một trong những cây ăn quả đợc quan tâm phát
triển.
Sản phẩm quả nhãn có giá trị dinh dỡng cao đợc dùng để ăn tơi, sấy
khô, làm thuốc an thần kích thích hoạt động của não. Cùi nhãn có thể chế đồ
hộp giá trị còn có phần cao hơn vải đóng hộp. Hạt nhãn, vỏ quả nhãn đều
dùng làm thuốc trong đông ytừ lâu quả nhãn đã đợc coi là mặt hàng quý
không chỉ tiêu dùng trong nớc mà còn đợc xuất khẩu ra nớc ngoài. Ngoài
ra nhãn còn là cây có nguồn mật, có chất lợng cao, mật ong từ hoa nhãn đợc
coi là loại mật thợng đẳng thơm ngọt có giá trị dợc liệu.
Cây nhãn đợc coi là cây trồng quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu cây
trồng trong sản xuất nông nghiệp ở nhiều vùng kinh tế của đất nớc. Cây nhãn
không chỉ đợc trồng trong vờn với quy mô khác nhau mà còn đợc sử dụng
trồng nh là cây bóng mát, cây cảnh ở ven đờng, trong các công sở, trờng
học, công trình thuỷ lợibởi tán cây xoè rộng có tác dụng phủ xanh đất trống,
bảo vệ tài nguyên đất, cải thiện cảnh quan môi trờng sinh thái.
Trong những năm gần đây chúng ta đã ứng dụng tiến bộ kỹ thuật ghép
nhãn để thay thế cho việc nhân giống bằng hạt và cây chiết, đã mở ra khả
năng mở rộng diện tích, tăng năng suất phẩm chất của sản phẩm quả cho các
vùng kinh tế ngoài vùng truyền thống trồng nhãn trớc đây (Hng Yên). Cây
nhãn ghép sinh trởng phát triển nh thế nào ở các vùng sinh thái khác nhau?
Có phù hợp với vùng đất bạc màu không? Mẫu mã và phẩm chất quả nhãn
trồng ở các vùng kinh tế này nói chung và ở Việt Yên nói riêng so với nhãn ở

- So sánh năng suất, chất lợng của các giống nhãn thí nghiệm trồng ở Việt
Yên với những kết quả nghiên cứu nhãn ở Hng Yên để khuyến cáo cho
hoạch định phát triển trồng nhãn trên đất thấp còn bỏ trống tại Việt Yên.

7
1.4. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.4.1

nghĩa khoa học
- Đề tài là công trình đầu tiên tiến hành điều tra, nghiên cứu có tính hệ
thống hiện trạng sản xuất nhãn ở huyện Việt Yên - Bắc Giang.
- Đây cũng là công trình đầu tiên đánh giá khả năng sinh trởng phát triển
của một số giống nhãn trên vùng đất bạc màu Việt Yên - Bắc Giang, cung cấp
thông tin làm cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch phát triển trồng cây nhãn ở
Việt Yên và là tài liệu phục vụ cho việc đào tạo, giảng dạy và khuyến nông về
cây ăn quả.
1.4.2

nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu về sinh trởng, phát triển của các giống nhãn trên vùng
đất bạc màu của vùng trung du và núi thấp thuộc tỉnh Bắc Giang là cơ sở để
khuyến cáo các giống và cơ cấu giống nhãn cho vùng. Góp phần phục vụ
chơng trình phát triển cây ăn quả của huyện, phủ xanh đất trống bạc màu,
mở rộng diện tích đẩy mạnh sản xuất nhãn hàng hoá, tận dụng đất thấp còn bỏ
trống để phát triển sản xuất cây ăn quả tạo vùng nguyên liệu phục vụ công
nghiệp chế biến quả.
- Góp phần xây dựng hệ thống sản xuất nông nghiệp bền vững tăng thu

2.2.1 Nghiên cứu về nguồn gốc và phân bố của nhãn
2.2.1.1 Nghiên cứu về nguồn gốc của nhãn
Về nguồn gốc và xuất xứ của cây nhãn có nhiều tài liệu xác nhận là cây
nhãn có mặt ở các vùng núi kéo dài từ Myanma đến miền Nam Trung Quốc.
Sau đó nhãn đợc mở rộng đến các miền đất thấp ở miền tây nam ấn Độ và
Sri Lanka. ở Trung Quốc nguồn gốc của nhãn ở hai trung tâm: Trung tâm thứ
nhất là ở Vân Nam và trung tâm thứ hai là ở Quảng Đông, Quảng Tây và Hải
Nam (Ke et al., 2000) [43].
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của các tác giả: Macmilom (sổ tay nghề
vờn nhiệt đới) dẫn theo [8]. Roxburgh (thực vật chí ấn độ) dẫn theo [8].
Đều cho rằng cây nhãn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Leenhouto, dẫn theo [8]
cho rằng Kalimantan (Indonesia) cũng là một cái nôi của cây nhãn. Tuy nhiên
theo Decandolle, dẫn theo [8] nguồn gốc cây nhãn có ở ấn độ, vùng có khí
hậu lục địa, vùng tây Ghats ở độ cao 1600m còn có rừng nhãn dại, ở các bang

9
Bengal và Assam ở độ cao 1000m trồng nhiều nhãn. Sau thế kỷ 19 nhãn còn
đợc nhập vào trồng ở các nớc Âu Mỹ, châu Phi, australia trong vùng nhiệt
đới và á nhiệt đới. ở Việt Nam nhãn đợc trồng từ bao giờ. Theo Vũ Công
Hậu (1999) [8] ..."Có thể miền bắc nớc ta là một trong những vùng quê
hơng của nhãn..."
2.2.1.2 Tình hình phân bố nhãn trên thế giới:
Cho đến nay diện tích và sản lợng nhãn trên thế giới cha đợc thống kê
đầy đủ vì nhãn thờng đợc trồng trong "vờn gia đình" và sản lợng thu
hoạch thờng bị để ngoài các giữ liệu thống kê quốc gia [8].
Hiện nay Trung Quốc là nớc có diện tích trồng nhãn lớn nhất trên thế
giới. Theo Lê Mỹ Anh khoa viện nghệ trờng đại học Nông nghiệp Quảng Tây

- Giống Đại Quảng, giống Ô Long, Đại ô viên, Phúc Châu... (Trung Quốc)
- Ssp Malesianus var male sianas: ở nhiều nơi thuộc các nớc Đông
Dơng và khu vực Malaixia.
- Ssp Longan var obtusus: ở các nớc Đông Dơng và Thái Lan [17].
2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nhãn trên thế giới và trong nớc
2.2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nhãn trên thế giới
Nhãn là cây ăn quả á nhiệt đới có sản lợng lớn năng suất tăng theo độ
tuổi. Tuy nhiên số đông ngời phơng Tây cha đánh giá cao quả nhãn vì vậy
mà vấn đề sản xuất và tiêu thụ nhãn sang các nớc phơng Tây có phần hạn
chế. Điều này ngợc lại đối với ngời á đông.
Nghiên cứu về sản xuất nhãn ở Trung Quốc [44], Trung Quốc năm 1997
có diện tích trồng nhãn 432.400 ha với sản lợng 232.000 tấn quả, phân bố
chủ yếu ở các vùng Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, Tây Tạng, Vân Nam
và Hải Nam, diện tích và sản lợng nhãn ở Quảng Tây, Quảng Đông và Phúc
Kiến chiếm 97% diện tích trồng và sản l
ợng nhãn ở Trung Quốc. Trong 11
năm từ 1987 đến 1997 sự tăng trởng về diện tích và sản lợng nhãn ở Quảng
Tây, Quảng Đông và Phúc Kiến số liệu đợc trình bày ở bảng 1: 11
Bảng 1: Kết quả sản xuất nhãn ở một số vùng chủ yếu của Trung Quốc
Diện tích (ha) Sản lợng (tấn)
Chỉ tiêu

Vùng trồng
Năm 1987 Năm 1997 Năm 1987 Năm 1997

1998 có diện tích 11.808 ha với sản lợng 53.385 tấn. Kết quả thống kê trong
5 năm 1994 - 1998 diện tích trồng nhãn tăng không đáng kể và có xu hớng
giảm (1998 diện tích trồng nhãn 11.808 ha, chiếm 97,25%). Sản lợng nhãn
chỉ đạt 48,77% so với năm 1994, với nguyên nhân nhãn ở các mô hình sản
xuất ra quả cách năm và quả có kích thớc biến động lớn.
Nghiên cứu về năng suất nhãn ở Thái Lan Subhadrabandhu và

12
Yapwattanaphun (2000a) [46], cho biết trong 10 năm từ 19891998 thì năm
có năng suất cao nhất đạt 7.325 kg/ha/năm (1990) và năm có năng suất thấp
chỉ đạt 2.512 kg/ha/năm (1989). Trong đó năm 1989, 1991, 1993, 1995 là
những năm mất mùa có sản lợng nhãn thấp, các năm 1990, 1992, 1994, 1996
là những năm đợc mùa và cho sản lợng cao. Nghiên cứu về năng suất nhãn
năm 1993 ở Thái Lan cho thấy ở các tỉnh khác nhau thì nhãn có năng suất
khác nhau nh: ở Lamphun là 3.712 kg/ha/năm, ở Chiang Rai là 5.194
kg/ha/năm và cao nhất là ở Chiang Mai là 6.837 kg/ha/năm.
Nghiên cứu diễn biến năng suất nhãn ở các tỉnh có nhiều nhãn ở Trung
Quốc (Liu and Ma 2000) [44] năng suất nhãn ở ba tỉnh Quảng Tây, Quảng
Đông và Phúc Kiến từ 1987 đến 1997 cho thấy ở Quảng Đông năm đạt năng
suất cao là 2.506 kg/ha/năm (1987) và năm đạt năng suất thấp là 1.044
kg/ha/năm (1995). Tơng tự nh vậy ở Phúc Kiến năm 1987 nhãn đạt năng
suất 1.650 kg/ha/năm và năm đạt năng suất thấp 1.023 kg/ha/năm (1993), ở
Quảng Tây năm đạt năng suất cao là 2.435 kg/ha/năm (1987) và năm đạt năng
suất thấp 731kg/ha/năm (1993).
Nghiên cứu năng suất nhãn ở Đài Loan (Yen 2000) [53] từ 1994 đến 1998
cho thấy năm nhãn đạt năng suất cao là 12.701 kg/ha/năm (1995) và năm
nhãn đạt năng suất thấp là 4.506 kg/ha/năm (1996).

thấy năm 1996 đợc mùa nhãn với tổng sản lợng quả là 236.426 tấn, giá là
16,17 Baht/kg, năm 1995 sản lợng 143.592 tấn, giá là 18,87 Baht/kg.
ở Đài Loan (Yen 2000) [53] năm 1997 sản lợng nhãn là 130.495 tấn với
giá là 25,34 N.T.$/kg, năm 1998 sản lợng nhãn là 53.385 tấn với giá là 64
N.T.$/kg.
2.2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nhãn ở Việt Nam
ở Việt Nam, nhãn là cây ăn quả đặc sản có từ lâu đời ở nớc ta đợc nhiều
ngời a chuộng, do những u điểm của nó. Lê Quý Đôn đã nói về nhãn lồng
Hng Yên: "Mỗi lần bỏ vào miệng thì trong răng l
ỡi đã nảy vị thơm tựa nh
thấm nớc ngọt của trời cho".
Nhãn đợc trồng nhiều ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, nhiều nhất là ở Hải

14
Hng tập trung ở thị xã Hng Yên, các huyện Phù Tiên, Kim Thi, Cẩm Bình,
Châu Giang, Ninh Thanh. Cả vùng có khoảng trên 2 triệu cây, tính theo mật
độ thông thờng, diện tích trồng nhãn ớc tính khoảng 35.000 - 40.000 ha.
Chủ trơng phát triển trồng cây ăn quả ở vùng trung du và miền núi phía bắc
nhằm phủ xanh đất trống đồi trọc cây nhãn nói riêng và cây ăn quả nói chung
đợc đa vào các mô hình vờn ao chuồng, góp phần cải thiện đời sống nhân
dân. Do nhu cầu quả tơi tại chỗ, một số vùng sản xuất chính và những vùng
phụ cận khác trong cả nớc đã đẩy mạnh diện tích trồng nhãn vừa đáp ứng
nhu cầu quả tơi tại chỗ vừa vận chuyển tiêu thụ đến các trung tâm thành phố,
thị xã chính vì vậy cây nhãn không chỉ trồng nhiều trong các "vờn gia đình"
mà nó còn đợc trồng nhiều trên quy mô kinh tế trang trại với diện tích lớn.
Ngời ta còn sử dụng quả nhãn đa vào lò sấy làm long nhãn vừa tiêu thụ
trong nớc vừa xuất khẩu qua Trung Quốc. Tuy nhiên có phản ánh gần đây là

Nhãn là cây ăn quả có khả năng thích nghi rộng, tuy nhiên ở mỗi nớc
mỗi vùng sự sinh trởng và phát triển của nhãn có khác nhau, liên quan chặt
chẽ đến điều kiện sinh thái của từng vùng. Vấn đề này đợc nhiều tác giả
nghiên cứu và rút ra kết luận sau:
"Nhãn là cây cận nhiệt đới, có thể sinh trởng và phát triển tốt ở vùng
nhiệt đới nhng đòi hỏi khí hậu thay đổi theo mùa rõ rệt để tạo điều kiện cho
sự nở hoa mùa đông ngắn (2- 3 tháng) với nhiệt độ trung bình 15- 20
0
C thì
nhãn sẽ sai quả và cho sản lợng cao...". Độ ẩm trong đất rất cần thiết cho
nhãn trong thời kỳ từ khi đậu quả đến lúc thu hoạch. Lợng ma hàng năm
thích hợp cho sự sinh trởng của nhãn vào khoảng 1.500 - 2.000 mm [27].
ở Trung Quốc ngời trồng nhãn có câu "Cạn chi thấp nhãn" tức là vải thích
khô còn nhãn thích ẩm. Đó cũng là lý do vì sao ngời ta thờng trồng nhãn ở
các vùng đất thấp, không trồng ở quá cao, ở vùng đồi nhất định phải tới nớc
cho nhãn thì mới ra hoa đậu quả đợc. Lợng ma thích hợp từ 1000 mm trở
lên, tuy nhiên nhãn cũng là cây ăn quả có khả năng chịu hạn tốt [25].
Ngời Trung Quốc cũng nói: "Dơng nhật lệ chi, bội nhật long nhãn" (có
nghĩa vải trồng ra nắng còn nhãn trồng ở chỗ khuất nắng) khuất nắng không
có nghĩa là bóng râm vì nhãn cũng nh các cây ra hoa ở đầu cành, là cây a

16
sáng. Tuy nhiên nó cũng rất sợ ánh sáng trực xạ (nhãn Bắc) còn đối với nhãn
Nam chịu nắng, chịu đất cát rất tốt [25].
Nhãn hàng hoá là cây ăn quả á nhiệt đới sinh trởng tốt trong vùng nhiệt
đới những đòi hỏi sự thay đổi của mùa để phân hoá mầm hoa. Trong thời gian
ngắn khoảng 2-3 tháng lạnh trong mùa đông có nhiệt độ tối thiểu từ 15-22

thờng cành mẹ của cây nhãn là cành thu và cũng là cành mẹ tốt nhất vì cành

17
này sinh trởng khoẻ, sung sức tích luỹ đợc nhiều dinh dỡng, hiệu năng
quang hợp cao.
Kết quả nghiên cứu của trờng Đại Học Nông Nghiệp Phúc Kiến, Trung
Quốc, trong 3 năm cho thấy: Cành thu của nhãn đợc hình thành từ cành mùa
hè: chiếm 40- 70%, ra trên cành quả đã thu hoạch chiếm 23- 40,1%, ra trên
các loại cành khác chiếm 12,1- 47%. Nh vậy việc bồi dỡng cành thu đủ về
số lợng và sung sức sẽ đảm bảo cho vụ quả sang năm là một vấn đề hết sức
quan trọng hiện nay đang đặt ra để khắc phục hiện tợng nhãn cách năm
không có quả [56].
Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trởng các đợt lộc trên giống nhãn
Hơng chi ở giai đoạn kinh doanh (10 tuổi) tại vờn Trờng Đại học Nông -
Lâm Thái Nguyên. Ngô Xuân Bình (2003) [1] cho biết:
- Giai đoạn kinh doanh một năm cho 4 đợt lộc, số lợng lộc giảm dần theo
thứ tự: lộc thu - hè - xuân - đông.
- Các đợt lộc khác nhau có thời gian sinh trởng và mức độ sinh trởng
khác nhau, ở lộc hè: thời gian sinh trởng, chiều dài cành thuần thục, số
lá và số mắt đạt giá trị cao nhất.
Các đợt lộc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, mỗi đợt lộc đều đợc phát
sinh từ các loại cành của các mùa vụ khác nhau trong năm hoặc của những
năm trớc. Do đó khi cần tác động đến một đợt lộc cụ thể, phải chú ý tác động
đến cành mẹ là nguồn gốc sinh ra lộc.
2.2.5. Đặc điểm thực vật học và sinh vật học của cây nhãn.
2.2.5.1. Nghiên cứu về rễ nhãn và sự phát dục của rễ
Rễ nhãn ăn rất sâu và rộng, ở những vùng đất đỏ tơi xốp rễ có thể ăn sâu

đặc điểm sau:
- Tầng biểu bì của lá dày.
- Phần lớn khí khổng bị tế bào bảo vệ trồi ra che lấp.
- Các gân lá lớn nhỏ đều có những bó mạch dẫn kéo dài ra đến lớp biểu bì
[26].
2.2.5.3. Nghiên cứu về hoa nhãn, đặc điểm nở hoa và sự phân hoá mầm hoa
Nhãn là cây ăn quả á nhiệt đới có quá trình phân hoá mầm hoa và sau đó là

19
ra hoa kết quả trong cùng 1 năm. Quá trình phân hoá hoa chia ra các bớc sau:
- Thời kỳ chuẩn bị: Đỉnh sinh trởng nhỏ, nhọn các vẩy xếp khít chặt vào
nhau.
- Thời kỳ phân hoá gốc mầm hoa: Khoảng đầu đến cuối tháng 2 bắt đầu có
sự phân hoá mầm lá và mầm hoa, mầm hoa thờng hơi tròn, hình chùy, ngắn
và to.
- Phân hoá chùm hoa: Cuối tháng 2 đầu tháng 3 chùm hoa hình thành nhanh
và tách ra thành nhiều mầm, những chùm nhỏ hình thành sớm phân hoá ra
mầm, đài hoa.
- Chùm hoa hình thành nhanh thờng vào cuối tháng 3 hình thành nên rất
nhiều nhánh nhỏ, bắt đầu hình thành đài hoa một số hình thành cánh hoa.
- Hình thành hoa ở nhãn sự phát dục thành hoa và phân hoá mầm hoa xảy ra
gần nh cùng một lúc. Đến đầu tháng 4 về cơ bản đã hình thành chùm hoa đầy
đủ, đài, cánh hoa xuất hiện rất nhanh, nhị và nhuỵ xuất hiện, tử phòng bắt đầu
nhú ra, giai đoạn này rất ngắn thờng chỉ 10 ngày [26].
Để đảm bảo cho cây nhãn phân hoá mầm hoa đợc thuận lợi trong mùa
đông cần có 1 thời gian có nhiệt độ thấp và khô hạn vừa phải để nhằm hạn chế
cành mùa đông có lợi cho việc quang hợp và tích luỹ chất khô, tăng nồng độ

2.2.5.4. Nghiên cứu về sự sinh trởng và phát dục của cành
Một năm nhãn ra từ 3 đến 5 đợt cành, cành xuân 1 đợt, cành hè 2 - 3 đợt,
cành thu 1 đợt, cành đông ít hơn.
- Thông thờng thì cành thu chiếm khoảng 1/3. Nhng nếu năm trớc không
ra quả hoặc ít quả thì cành xuân cành hè nhiều. Cành non (lộc) thờng mọc từ
đỉnh ngọn của cành mẹ, cũng có khi mọc từ nách hoặc từ mầm bất định. Thời
gian, số lợng các đợt lộc phụ thuộc vào sức sinh trởng của cây, tuổi cây, số
lợng quả năm trớc và chế độ nớc, dinh dỡng [56].
- Cành xuân thờng mọc từ cành thu năm trớc, cành hè và cành thu không
mang quả hoặc cành già đã mang quả của năm trớc. Khoảng tháng 1 đã bắt
đầu nứt lộc, mạnh nhất là tháng 2 đến giữa tháng 3, đến giữa tháng 4 thì hết,
cuối tháng t thì cành xuân đã già. Cây nhãn hàng năm ra quả đều thì cành
xuân ít, hoa quả năm trớc ít thì năm sau cành xuân nhiều và mập. Những

21
cành xuân gầy yếu nên cắt bỏ cho ra cành thu làm cành mẹ thì tốt hơn.
- Cành hè: Nói chung cành hè mọc ra từ cành xuân hoặc cành hè, cành thu
của năm trớc, trên cành đã ngắt quả, cành già của năm trớc. Cành hè có thể
ra làm 2-3 đợt. Đợt 1 vào trung tuần tháng 5 thờng ít, đợt 2 vào cuối tháng 6
đến đầu tháng 7. Do ma nhiều, nhiệt độ cao nên thờng ra rất nhiều lộc, đợt
3 vào cuối tháng 7 đến đầu tháng 8. Lộc đợt này thờng phát sinh ngay trên
cành hè ra sớm trong năm hình thành nên 2 đợt cành trong một vụ hè. Số
lợng cành hè nhiều, ít phụ thuộc vào mùa quả trong năm. Trong năm sai quả
thì cành hè ít, nớc phân đầy đủ thì cành hè nhiều. Cành hè nhiều hay ít, tốt
hay xấu liên quan mật thiết đến cành thu là cành mẹ của cành quả năm sau.
Cành hè là cành rất quan trọng, ngoài việc là gốc của cành thu, cành hè còn có
thể trực tiếp là cành mẹ mang quả. Cành hè to, mập, lá nhiều là cành mẹ mang

chúng đến năng suất, Trần Văn Khởi (2002) [12] cho biết:
- Nhãn có khả năng ra cành quanh năm, cành hè và cành thu chiếm 70 -
90%, cành đông và cành xuân chiếm 10 - 30%.
- Trong các giống nhãn thí nghiệm thì giống nhãn lồng ra nhiều cành nhất,
nhãn nớc ra ít cành nhất trong năm.
- Số lợng cành hè và cành thu có tơng quan thuận với năng suất quả, số
lợng cành xuân có tơng quan nghịch, cành đông không có tơng quan với
năng suất quả.
2.2.5.5. Nghiên cứu sinh trởng của quả nhãn
Sau khi thụ phấn thụ tinh quả bắt đầu phát triển, tháng đầu chiều cao quả
phát triển nhanh hơn đờng kính quả, đồng thời hạt cũng to dần lên. Sang
tháng thứ 2 quả phát triển với tốc độ nhanh dần và đạt đợc kích thớc lớn, lúc
này các chùm quả đã hiện rõ trên tán cây. Khoảng giữa tháng 6 đầu tháng 7
cùi phát triển nhanh bao kín lấy hạt và sau đó là thời kỳ tích luỹ vật chất và
chín của quả [27].
2.2.5.6. Nghiên cứu đặc điểm rụng quả của nhãn
Nhãn là cây có tỷ lệ đậu quả cao, sau khi hoa tàn khoảng 1 tháng thì có
đợt rụng quả lần thứ nhất chiếm 40- 70% số quả rụng. Các quả rụng lần này là
do quá trình thụ phấn thụ tinh không đầy đủ hoặc do noãn phát triển kém...

23
Lần rụng quả sinh lý lần 2 vào giữa tháng 6 tháng 7 đến lúc quả chín, song số
lợng quả rụng không đáng kể. Do đó cần có biện pháp kỹ thuật thích hợp để
khắc phục hiện tợng rụng quả đối với nhãn [27].
2.2.6. Nghiên cứu về chọn giống và nhân giống nhãn
2.2.6.1. Nghiên cứu về chọn giống nhãn
Nghiên cứu về tiêu chuẩn quả nhãn hàng hoá, Tôn Thất Trình (1995) [20]

chia chúng thành 3 nhóm chính là:
- Nhóm giống trồng chủ yếu: Gồm 25 giống là những giống trồng nhiều trên
diện tích rộng và có lịch sử lâu đời, có u việt và có giá trị kinh tế cao.
- Nhóm giống trồng bình thờng: Gồm 68 giống là những giống có diện tích
trồng hẹp, sản lợng thơng phẩm thấp, trong đó có một số giống có đặc tính
kinh tế tốt có diện tích trồng vừa phải.
- Nhóm giống gồm nhiều cá thể u tú: Gồm 34 giống có hình thái đột biến
vì giá trị kinh tế cao, số lợng cây rất ít (nh các cây nhãn u tú ở nớc ta).
Xinghui Liu và Cuilan Ma. (2000) [44] cho rằng nhãn là một trong những
cây á nhiệt đới quan trọng nhất và là sản phẩm đặc biệt nổi tiếng của Miền
nam Trung Quốc. Các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến và Đài Loan
là những vùng sản xuất chính. Năm 1997 diện tích trồng nhãn thống kê là
444.400 ha với sản lợng 495.800 tấn, trong đó giống chín sớm chiếm 14%,
chính vụ chiếm 68% và chín muộn 18%.
ở Malaysia những giống nhãn địa phơng đợc chia thành 4 nhóm dựa theo
đặc điểm thực vật học và quả là: Isau, Sau, Kakus và Mata Kuching (Kai Choo
Wong), 2000 [42].
Tại Đài Loan để có cơ sở cho công tác tuyển chọn giống nhãn Chao Cheng
Nam, Chang-Jerway, Yen- Chungrung (1997) [37] từ 1993 - 1996 đã tìm hiểu
đặc tính của 42 giống nhãn địa phơng. Nhóm tác giả này cho biết khối lợng
quả của 15 giống nhãn (chiếm 35,7%) giao động từ 9 - 10,9 gam/ quả, có 4
giống có khối lợng quả trên 13 gam. Tỷ lệ cùi của 17 giống (chiếm 40,5%)
dao động từ 65 - 69,9%, chỉ có giống Pu- way là trên 70%. Nồng độ chất tan
của 13 giống (31%) có độ Brix trên 21%. Khối lợng hạt của 24 giống
(57,1%) giao động từ 1,6- 2,0 gam, chỉ có 2 giống hạt nhỏ hơn 1 gam.

25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status