Đánh giá chỉ số tscore mật độ xương gót và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân nữ mãn kinh tại phòng khám bệnh đa khoa trường đại học Y khoa Vinh - Pdf 31

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐÀO THỊ MINH HIỀN

ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ T-SCORE MẬT ĐỘ XƯƠNG GÓT
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN
NỮ MÃN KINH TẠI PHÒNG KHÁM BỆNH ĐA
KHOA TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC

Nghệ An – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐÀO THỊ MINH HIỀN

ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ T-SCORE MẬT ĐỘ XƯƠNG GÓT
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN
NỮ MÃN KINH TẠI PHÒNG KHÁM BỆNH ĐA
KHOA TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA VINH

Chuyên ngành : Sinh học thực nghiệm
Mã số
: 60.42.30
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS.Trần Đình Quang

Trang
1

Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ LOÃNG XƯƠNG

4

1.1. Lược sử nghiên cứu về loãng xương

4

1.2. Khái quát về loãng xương

6

1.3. Cấu trúc, chức năng và quá trình chu chuyển xương

9

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới mật độ xương

12

1.5. Các phương pháp chẩn đoán loãng xương và đo mật độ xương

19

1.6. Hậu quả của loãng xương

22


31

3.3. Các triệu chứng lâm sàng cơ xương khớp theo nhóm tuổi

35

3.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số T-score

36

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

48

TÀI LIỆU THAM KHẢO

50

PHỤ LỤC

vi


iii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Đặc điểm chiều cao, cân nặng, chỉ số BMI của các nhóm tuổi


46


iv

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1. Sơ đồ chu kì đổi mới xương

Tran
g
11

Hình 1.2. Hình ảnh hậu quả do loãng xương

22

Hình 2.1. Máy Sonost 3000

26

Hình 2.2. Hình ảnh đo mật độ xương gót chân

27

Hình 3.1. Biểu đồ phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi

29

Hình 3.2. Biểu đồ tình trạng loãng xương chung


4

BMI

Chỉ số khối cơ thể

5

BMD

Mật độ khoáng của xương

6

PBM

Khối lượng xương đỉnh

7

FAO

Tổ chức lương thực thế giới

8

SPA

Phương pháp đo hấp thụ Photon đơn


14

SOS

Thông số tốc độ âm qua xương gót


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, loãng xương và hậu quả của loãng xương
đã trở thành vấn đề quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng được nhiều tác giả
trong nước và nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Xu thế tuổi thọ ngày càng
tăng, số người cao tuổi ngày càng nhiều, tỉ lệ loãng xương ngày càng tăng
luôn là mối đe dọa không chỉ đối với bản thân, gia đình người bệnh mà còn
gánh nặng cho toàn xã hội.
Loãng xương làm giảm năng suất lao động, do đó gây ảnh hưởng gián
tiếp tới nền kinh tế. Ngày nay, nhờ một số phương pháp đo mật độ xương,
người ta có thể đánh giá chính xác khối lượng xương, chỉ ra mức độ loãng
xương, theo dõi tiến triển của bệnh và phát hiện sớm các đối tượng có nguy
cơ nhằm phòng ngừa, điều trị sớm tránh được các biến chứng của loãng
xương như gãy xương, biến dạng cột sống… làm giảm tỉ lệ tử vong do loãng
xương.
Loãng xương chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: tuổi, giới, hormon,
chế độ sinh hoạt, luyện tập, chiều cao, cân nặng của mỗi cá thể, một số loại
thuốc, đặc biệt phụ nữ thời kì mãn kinh. Loãng xương sau mãn kinh là mất
xương ở xương xốp, gãy lún các đốt sống, đầu dưới xương quay, xuất hiện
trong vòng 15-20 năm sau mãn kinh.
Trên thế giới, có khoảng 200 triệu người bị loãng xương, tại Châu Âu

gót và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân nữ mãn kinh tại Phòng khám bệnh
Đa khoa Trường Đại học Y khoa Vinh”. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần vào
công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân tại khu vực này.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Khảo sát thực trạng bệnh loãng xương ở phụ nữ mãn kinh đến khám
tại Phòng khám bệnh Đa khoa, Trường Đại học Y khoa Vinh Nghệ An thông
qua việc đánh giá chỉ số T-score mật độ xương gót bằng máy đo loãng xương
siêu âm Sonost 3000 (Hàn Quốc).
- Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến mật độ xương ở phụ nữ sau mãn
kinh tại Phòng khám bệnh Đa khoa, Trường Đại học Y Khoa Vinh.


3

Nội dung nghiên cứu của đề tài
+ Điều tra và khảo sát bệnh nhân về mật độ xương:
- Phân bố đối tượng nghiên cứu theo khu vực: Nông thôn- Thành thị.
- Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm nghề: Nghề ngồi nhiềuNghề hoạt động nhiều.
- Đo một số chỉ số nhân trắc của đối tượng nghiên cứu và phân loại chỉ
số BMI theo nhóm tuổi.
- Tình trạng mật độ xương của đối tượng nghiên cứu: Theo nhóm tuổi,
theo khu vực sống, theo nhóm nghề.
+ Phân tích ảnh hưởng của chỉ số T-score tới các yếu tố độ tuổi, BMI, số năm
mãn kinh, thói quen tập thể dục, nghề nghiệp, khu vực sống, số lần sinh con,
một số biểu hiện lâm sàng.


4

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU LOÃNG XƯƠNG


đã được một số tác giả chú ý tìm hiểu và nghiên cứu.
Năm 1994, Vũ Đình Chính đã tiến hành điều tra tình trạng loãng xương
ở phụ nữ trong thời kì mãn kinh ở một số vùng nông thôn Hải Dương. Nghiên
cứu được tiến hành trên 200 phụ nữ sau mãn kinh làm nông nghiệp thuần tuý.
Tác giả đã tiến hành thăm khám lâm sàng, phát hiện các triệu chứng về xương
khớp và chụp X-quang xương bàn tay cho 30 phụ nữ sau mãn kinh. Kết quả
cho thấy những biểu hiện bệnh lí ở cơ quan vận động, trong đó bao gồm cả
triệu chứng lâm sàng gợi ý bệnh loãng xương là rất thường gặp ở tuổi mãn
kinh, kết quả cũng cho thấy tỉ lệ gãy xương do loãng xương ở người già và
phụ nữ tuổi mãn kinh là khá cao [11].
Vũ Thị Thanh Thủy (1996) nghiên cứu về một số nguy cơ xẹp đốt sống
do loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh, khuyến cáo cần có một chế độ theo
dõi và dự phòng lún đôt sống do loãng xương ở những phụ nữ đã mãn kinh ,
đặc biệt là những đối tượng có các yếu tố sau: chiều cao ≤ 145cm, cân nặng
20 năm, có tiền sử gãy xương sau 45 tuổi [33].
Nguyễn Thị Thanh Phượng và cộng sự (2001) bước đầu nghiên cứu mật
độ xương ở phụ nữ bình thương trẻ từ 20-39 tuổi, khi mật độ xương đạt đỉnh
cao nhất bằng phương pháp đo hấp thụ tia X năng lượng kép, từ đó rút ra
được giá trị trung bình của mật độ xương gót và xương cẳng tay ở phụ nữ
bình thường 20-39 tuổi. Đánh giá sự ảnh hưởng của một số yếu tố thể chất và
hoạt động sinh lí đến mật độ xương [30].
Năm 2003, Nguyễn Thị Hoài Châu đã tiến hành khảo sát mật độ xương
và tìm hiểu những yếu tố liên quan đến bệnh loãng xương của phụ nữ ở thành
phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Tây Nam bộ. Nghiên cứu được tiến
hành trên 305 phụ nữ gồm 161 người đã mãn kinh và 144 người chưa mãn
kinh, được đo mật độ xương gót và khảo sát các yếu tố liên quan đến bệnh
loãng xương. Kết quả cho thấy tỉ lệ loãng xương và giảm mật độ xương ở
nhóm phụ nữ mãn kinh cao hơn rõ rệt so với nhóm chưa mãn kinh, tuổi, BMI,


xương là những đan xen của các tế bào và mô tạo nên xương, phản ánh chất


7

lượng của xương. Hệ quả của loãng xương đã đề cập ở đây là nguy cơ loãng
xương điều này được hiểu không phải ai mắc chứng loãng xương cũng đều bị
gãy xương và ngược lại không phải bất cứ ai không mắc chứng loãng xương
đều bị gãy xương. Sự thật ở đây là những người mắc hội chứng loãng xương
có nguy cơ gãy xương cao hơn những người không mắc chứng loãng xương.
Theo WHO (1993), loãng xương là một bệnh lí của xương, được đặc
trưng bởi sự giảm khối lượng xương kèm theo hư biến cấu trúc của xương,
dẫn đến tăng tính dễ gãy của xương, tức là có nguy cơ gãy xương. Để đánh
giá nguy cơ gãy xương cần đo mật độ chất khoáng của xương (BMD - Bone
Mineral Density) [62]. BMD biến chuyển theo độ tuổi: tăng nhanh trong thời
kì niên thiếu, đạt mức độ đỉnh (BMD peak) vào khoảng độ tuổi 20-30, sau
một thời gian ổn định, BMD bắt đầu suy giảm theo nồng độ estrogen (ở nữ)
hay sau độ tuổi 50 (ở nam). Do đó, BMD của một cá nhân thường được so
sánh với mức độ BMD đỉnh, đơn vị tính toán theo độ lệch chuẩn. Nếu gọi
BMD của một cá nhân i là BMDi, BMD đỉnh của một quần thể là pBMD, và
độ lệch chuẩn của pBMD trong quần thể đó là SD. T-score của một cá thể là
chỉ số mật độ xương (BMD) của cá thể đó so với BMD của nhóm người trẻ
tuổi làm chuẩn. Giá trị T-score được tính theo công thức sau:

T=

BMDi − pBMD
SD

[43]

xương nguyên phát và loãng xương thứ phát.
Loãng xương nguyên phát gặp ở tuổi già, do quá trình lão hóa của tạo
cốt bào gây nên thiểu sản xương, tuổi càng cao thì tình trạng thiếu sản xương
càng tăng, cho đến khi trọng lượng riêng giảm trên 30% so với bình thường
thì có dấu hiệu lâm sàng và coi là bệnh lí vì vượt qua giới hạn sinh lí bình
thường. Ngoài ra loại này còn xuất hiện ở phụ nữ ở tuổi mãn kinh do rối loạn
và thiếu hụt kích tố nữ [7].
Loãng xương nguyên phát được chia thành hai thể: loãng xương type I
và loãng xương type II.
Loãng xương type I (hoặc sau mãn kinh): nguyên nhân do sự giảm
estrogen, thường gặp ở phụ nữ từ 50 đến 60 tuổi, đã mãn kinh. Tổn thương


9

chủ yếu là mất khoáng ở xương xốp (xương bè), biểu hiện bằng sự lún các đốt
sống, gù, còng. Loại này thường xuất hiện sau mãn kinh từ 6 đến 8 năm.
Ngoài sự thiếu hụt của estrogen người ta còn tìm thấy sự giảm tiết hormon
cận giáp trạng, tăng thải canxi qua nước tiểu, suy giảm hoạt động enzym 25OH-Vitamin D α hydroxylase làm giảm sự hấp thu canxi ở ruột non [7].
Loãng xương type II (hoặc loãng xương tuổi già): liên quan tuổi và sự
mất cân bằng tạo xương, có thể gặp ở cả nam và nữ trên 70. Mất chất khoáng
toàn thể cả xương xốp (xương bè) và xương đặc (xương vỏ). Biểu hiện chủ
yếu là gãy cổ xương đùi, xuất hiện muộn thường sau 75 tuổi. Loại type II này
liên quan đến tới hai yếu tố quan trọng là: giảm hấp thu canxi, giảm chức
năng tạo cốt bào dẫn tới cường cận giáp trạng thứ phát.
Loãng xương thứ phát thấy ở mọi lứa tuổi và do nhiều nguyên nhân khác
nhau: do bệnh tật, nghề nghiệp nên bất động trong thời gian dài, do thiếu dinh
dưỡng hoặc mắc một số bệnh như suy sinh dục, cường vỏ thượng thận, dùng
nội tiết tố vỏ thượng thận kéo dài, cường cận giáp, cường giáp hoặc lạm dụng
thuốc steroid, heparin trong trị bệnh kéo dài [7].

bào thai đã được “mô hình hóa” để có hình dạng khi trưởng thành ngay từ
tuần thứ 26 sau khi thụ thai. Sau khi sinh, xương phát triển nhanh trong giai
đoạn dậy thì. Khoảng 90% mật độ và khối lượng xương đỉnh của một người
được lưu trữ trong thời gian trước dậy thì. Tốc độ tăng trưởng mật độ xương
trong thời kì trước nhanh hơn nam giới. Nhưng ở độ tuổi 20 thì mức độ khác
biệt về mật độ xương giữa nam và nữ không còn khác nhau đáng kể. Sau thời
kì tăng trưởng mật độ xương trải qua giai đoạn ổn định, kéo dài khoảng từ 5
đến 15 năm. Sau độ tuổi 35, mật độ xương bắt đầu suy giảm, nhất là sau mãn
kinh. Mức độ suy giảm mật độ xương ở nữ thường cao hơn nam. Chính vì sự
suy giảm mật độ xương mà xương bị yếu, dễ bị gãy [39].
1.3.2. Quá trình chu chuyển của xương
Xương không phải là mô chết, thực tế xương là một mô liên tục có
chuyển hóa (metabolism) và đổi mới (remodeling). Cả hai quá trình này được
điều hòa bởi các yếu tố tại chỗ và toàn thân. Một chu kì đổi mới xương bao
gồm 3 giai đoạn: giai đoạn hủy xương (resorption), giai đoạn chuyển đổi


11

(reversal) và giai đoạn tạo xương mới (formation). Để hoàn thành quá trình tái
tạo xương cần mất 3-4 tháng, sau đó là giai đoạn nghỉ dài trước khi bắt đầu một
chu kì đổi mới xương tiếp theo [38].
Trong suốt cuộc đời của một người, xương cũ bị loại bỏ (tiêu xương)
và xương mới được thêm vào bộ xương (hình thành). Trong những năm thời
thơ ấu và thiếu niên, xương mới được thêm vào nhanh hơn so với xương cũ bị
loại bỏ. Kết quả là, xương trở nên lớn hơn, nặng hơn và dày đặc hơn.

Hình 1.1. Sơ đồ chu kì đổi mới xương [38].
Quá trình phát triển cơ thể, khối lượng xương trải qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: Khối lượng xương tăng dần để đạt đến giá trị tối đa

[52], [51], [78]. Boyanov và cộng sự (2002) trong nghiên cứu ở 8869 phụ nữ
Bulgary từ 20-87 tuổi cũng cho thấy mật độ xương cẳng tay giảm theo tuổi
với tỉ lệ là 20,5% với nhóm tuổi dưới 50 và 32,5% với nhóm tuổi từ 50 tuổi
trở lên [51].
Trần Thị Tô Châu và Vũ Thị Thanh Thủy (2006) cũng cho thấy tỉ lệ
loãng xương tăng dần theo tuổi đặc biệt là tăng nhanh sau tuổi 50 [10]. Thời


13

gian sống càng lâu, khối lượng xương mất càng lớn đồng thời sự hấp thu
canxi cũng giảm và do đó dễ có khả năng loãng xương [34].
Trong nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Thu Hiền (2009) cũng cho thấy tỉ
lệ loãng xương của phụ nữ tăng dần theo tuổi, đặc biệt là tăng nhanh sau tuổi
50 với 8,4% ở nhóm 50-60 tuổi so với 3,7% ở nhóm 40-49 tuổi (p
trên 2 phương diện: Cung cấp cho cơ thể các chất cần thiết để tạo xương, duy
trì hồi phục xương suốt cuộc đời. Nếu chế độ ăn không đủ canxi, cơ thể buộc
phải điều động canxi từ xương, điều này lâu dần sẽ dẫn đến loãng xương.
Theo khuyến cáo của WHO, nhu cầu canxi của người trên 50 tuổi tối thiểu là
1.200mg/ngày, vitamin D là 400 – 800 IV/ngày [5].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung (2005) cũng cho
thấy tần suất sử dụng hàng ngày các thực phẩm giàu canxi làm giảm tình
trạng loãng xương. Những người ăn đậu phụ, rau muống chỉ 1-4 lần/tháng có
nguy cơ bị loãng xương và giảm mật độ xương cao hơn 76 và 27 lần so với
những người ăn đậu phụ và rau muống hàng ngày [14]. Nghiên cứu của Phạm
Thị Thu Hương (2004), cũng thấy việc sử dụng ít các thực phẩm giàu canxi
hoặc các thực phẩm tăng cường canxi là một yếu tố nguy cơ đối với tình trạng


15

loãng xương của phụ nữ [21]. Trên thực tế phần lớn khẩu phần ăn của người
Việt Nam thường không cung cấp đủ lượng canxi cần thiết [27]. Đây chính là
nguyên nhân khiến cho thanh niên nước ta luôn có chiều cao khiêm tốn so với
thanh niên các nước trong khu vực kèm theo đó là tỉ lệ loãng xương khi về già
cũng cao hơn, đặc biệt là phụ nữ nông thôn [22].
Vitamin D là một chất dinh dưỡng quan trọng trong việc duy trì sức
khỏe của xương. Các chức năng chính của vitamin D là qui định của sự hấp
thụ canxi ở ruột và sự kích thích tiêu xương dẫn đến việc duy trì nồng độ
canxi huyết thanh. Kết quả nghiên cứu của Sunyecz (2008) chỉ ra rằng sự
thiếu hụt vitamin D làm giảm sự hấp thu canxi của cơ thể từ ruột từ đó là làm
gia tăng sản xuất tế bào hủy xương, cơ thể không được cung cấp đủ vitamin D
có thể dẫn đến nguy cơ cao loãng xương. Ánh sáng mặt trời là nguồn phổ biến
nhất của vitamin D. Một đề nghị cho đủ lượng vitamin D từ ánh sáng mặt trời
là sự tiếp xúc trực tiếp của da trên khuôn mặt, cánh tay, bàn tay hoặc lưng với

cao từ 145 cm trở xuống có nguy cơ giảm mật độ xương nhanh hơn so với
những phụ nữ có chiều cao trên 145cm [36]. Kết quả nghiên cứu của các tác
giả Dequeker (1980), Vũ Thị Thu Hiền (2009) cũng cho thấy những người có
tầm vóc nhỏ có khối xương thấp dễ có nguy cơ loãng xương [55], [17].
1.4.5. Yếu tố cân nặng
Ở những phụ nữ nhẹ cân sự mất xương xảy ra nhanh hơn và tần suất gãy
cổ xương đùi và xẹp đốt sống do loãng xương cao hơn [11]. Ngược lại, cân
nặng cao là một yếu tố bảo vệ cơ thể khỏi tình trạng mất xương thông qua
việc tăng tạo xương và tăng chuyển hóa androgen của tuyến thượng thận
thành estron ở mô mỡ. Yếu tố cân nặng có ảnh hưởng tốt trên khối xương,
những người béo có mật độ xương cao hơn so với những người gầy.
Năm 1986, Viện quốc gia về sức khỏe của Đan Mạch đã thông báo rằng
trọng lượng cơ thể thấp là một yếu tố nguy cơ đối với sự phát triển của loãng
xương [42]. Năm 2003, theo báo cáo của nhóm chuyên gia tư vấn phối hợp
WHO/FAO cũng cho thấy rằng cân nặng cơ thể thấp làm tăng nguy cơ gãy
xương do loãng xương cho nam và nữ trên 50 tuổi [46].
Nghiên cứu của tác giả Ninh Thị Nhung và Phạm Ngọc Khái [27] cho
thấy những phụ nữ có cân nặng
động trong nghiên cứu là đi bộ khoảng 30 phút, 2-3 lần mỗi tuần, liên tục ≥ 1
năm [16]. Dalsky và Stock (1988) đã ghi nhận rằng một chương trình luyện
tập 40 tuần làm tăng đáng kể mật độ xương ở cột sống thắt lưng của những
người luyện tập so với những người không luyện tập [54]. Trong một nghiên
cứu dài 4 năm, Smith và cộng sự (1996) đã so sánh 2 nhóm đối tượng, một
nhóm có luyện tập aerobic có chịu tải 45 phút/lần, 3 lần/tuần và một nhóm
không luyện tập [76]. Kết quả cho thấy tỉ lệ mất xương ở nhóm luyện tập
giảm hơn so với nhóm không luyện tập.
Ở Việt Nam, nghiên cứu của các tác giản Vũ Thị Thanh Thủy (1996),
Vũ Thị Thu Hiền (2005), Nguyễn Thị Kim Dung (2005) cho thấy rằng những
phụ nữ tập thể dục đều đặn ít nhất 3 lần/tuần sẽ giảm được nguy cơ loãng
xương so với nhóm không tập thể dục [33], [78], [14].
1.4.7. Thời gian mãn kinh
Mối liên quan giữa mãn kinh và loãng xương cũng đã được biết đến từ
lâu. Vào năm 1940-1941, cùng với Bloomberg, Smith và Richardson,
Albright đã trình bày một nghiên cứu trên 42 trường hợp loãng xương, trong
đó 40 ca là phụ nữ sau mãn kinh; tìm hiểu những ảnh hưởng của estrogen trên
cân bằng canxi ở những phụ nữ này cùng có nhận xét rằng: Sau mãn kinh
người phụ nữ có xu hướng bị mất xương của cột sống và xương chậu nên ông
gọi tình trạng này là loãng xương sau mãn kinh [48]. Nghiên cứu của Ho
(1997) cho thấy số năm mãn kinh đóng góp vào nguy cơ mật độ xương giảm
ở cột sống thắt lưng và cổ xương đùi [59]. Nghiên cứu của Phạm Thị Thu
Hương và cộng sự (2004) cũng cho thấy tỉ lệ loãng xương tăng dần theo thời



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status