Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn huyện hoài đức, thành phố hà nội - Pdf 36

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI THÔNG QUA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀI ĐỨC,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

TẠ THỊ THU

HÀ NỘI - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI THÔNG QUA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀI ĐỨC,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

TẠ THỊ THU

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THÔNG QUA CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ..................................................................... 8
1.1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đât
đai ....................................................................................................................... 8
1.1.1. Tranh chấp đất đai ................................................................................. 8
1.1.2. Giải quyết tranh chấp đất đai ............................................................... 19
1.2. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ
quan hành chính Nhà nước ............................................................................. 24
1.2.1. Cơ quan hành chính nhà nước.............................................................. 24
1.2.2. Giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành chính nhà nước 28
1.3. Khái quát về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan
hành chính nhà nước ....................................................................................... 33
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THÔNG QUA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀI ĐỨC, TP. HÀ NỘI ........................... 36
2.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành
chính Nhà nước ............................................................................................... 36
2.1.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai ....................................... 36
2.1.2. Nội dung giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành chính
Nhà nước ...................................................................................................... 39
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua
cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà
Nội. ................................................................................................................... 46
2.2.1. Khái quát lịch sử tự nhiên, kinh tế xã hội và tình hình quản lý đất đai
ảnh hưởng trực tiếp đến công tác giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn
huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội............................................................... 46

vững chắc nhất. Đất đai không chỉ phục vụ cho các mục đích hiện hữu cho nhu cầu
đời sống hàng ngày mà đã trở thành loại tài sản đặc biệt, hàng hóa đặc biệt được sử
dụng để trao đổi, lưu thông trên thị trường và chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy
luật của thị trường.
Xã hội ngày càng phát triển, theo đó, các quan hệ đất đai cũng ngày càng
được thiết lập đa dạng và phong phú hơn cả bề rộng lẫn chiều sâu. Đặc biệt, với sự
phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, các quan hệ đất đai cũng ngày
càng lan rộng nhanh chóng ở phạm vi quy mô cũng như độ phức tạp của nó. Kéo
theo đó, các tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng của các chủ thể tham gia quan hệ cũng
phát sinh và phát triển theo chiều hướng đa dạng và phức tạp về tính chất, mức độ và
ngày càng phổ biến hơn. Dẫu vẫn hiểu và ý thức được rằng, tranh chấp đất đai là hiện
tượng xuất hiện bình thường trong đời sống xã hội, ở mọi thời kỳ lịch sử và chúng
cũng tồn tại ở bất kỳ chế độ sở hữu nào, song điều không thể phủ nhận được rằng, ở
mỗi quốc gia khác nhau, với chế độ chính trị khác nhau, đặc biệt là với chế độ sở hữu
về đất đai khác nhau thì tính chất, đặc điểm của tranh chấp đất đai xảy ra cũng có
những đặc điểm không giống nhau, và điều quan trọng hơn là sự chi phối của chủ thể
sở hữu đối với việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng về tranh chấp
cũng hết sức khác nhau.
Huyện Hoài Đức là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội. Kể từ năm
2008, với quyết định mở rộng địa bàn thành phố Hà Nội và quy hoạch phát triển kinh
tế một số huyện vệ tinh xung quanh thủ đô Hà Nội đã làm cho huyện Hoài Đức có sự

1


thay đổi rõ rệt. Với tốc độ đô thị hóa nhanh, cơ cấu kinh tế dịch chuyển dần sang
phát triển công nghiệp, dịch vụ và thương mại, đất canh tác bị thu hồi, các khu đô thị
mới mọc lên kéo theo nhu cầu sử dụng đất cũng vì thế mà tăng lên đáng kể. Chính sự
thay đổi này đã tạo ra nhiều mặt thuận lợi song cũng có không ít những khó khăn.
Một trong những khó khăn phải kể đến đó là vấn đề tranh chấp đất đai diễn ra khá


4


b) Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích này, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những quy định
của pháp luật đất đai liên quan đến việc giải quyết tranh chấp đất đai, thực trạng giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành chính nhà nước ở huyện Hoài Đức,
thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó chỉ ra những thiếu sót, tồn tại của pháp luật hiện
hành; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của công
tác giải quyết tranh chấp đất đai, phúc đáp các đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Khách thể, đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Quy định của pháp luật hiện hành về công tác giải
quyết tranh chấp đất đai và việc thực hiện trên địa bàn huyện Hoài Đức.
- Đối tượng nghiên cứu: Đánh giá thực trạng công tác giải quyết tranh chấp
đất đai và tìm ra giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác này.
- Đối tượng khảo sát: Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền; một số chủ thể trong mối quan hệ tranh
chấp đất đai.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài về mặt không gian được giới hạn ở các cơ quan
nhà nước hành chính nhà nước trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội; về
mặt thời gian được giới hạn từ năm 2008 đến nay.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học:
Khi đi vào nghiên cứu đề tài, tôi đã xác định một số câu hỏi mà đề tài tôi cần
nghiên cứu là: tranh chấp đất đai và việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ
quan hành chính nhà nước trên địa bàn huyện Hoài Đức từ năm 2008 đến nay như
thế nào? Nguyên nhân của tình trạng trên? Giải pháp nào nhằm hạn chế tình trạng
tranh chấp đất đai và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai.

+ Phương pháp tiếp cận hệ thống: vấn đề nghiên cứu được đặt trong mối
quan hệ tổng quan, tiếp cận từ tổng thể đến chi tiết, từ lý luận tới thực tiễn, từ chính
sách pháp luật đến thực tiễn triển khai chính sách và thi hành pháp luật.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát: nhằm thu thập những ý kiến về chính sách
pháp luật do nhà nước ban hành từ chính những người trực tiếp làm công tác giải

6


quyết tranh chấp đất đai và những người trực tiếp chịu tác động từ những chính sách
đó. Bên cạnh đó, phương pháp này còn nhằm thu thập số liệu, tài liệu, thông tin cần
thiết cho mục đích đánh giá thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp đất đai
trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, do kinh phí và phạm vi thực hiện còn hạn chế nên kết
quả điều tra, khảo sát chưa cao, chỉ dùng nhằm mục đích tham khảo.
+ Phương pháp đánh giá, tổng hợp được sử dụng để phân tích nhằm làm rõ
các quy định của pháp luật, làm rõ thực trạng giải quyết tranh chấp trên địa bàn, từ
đó đưa ra những nhận xét, đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp đất đai.
8. Đóng góp của Đề tài:
Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học. Một số kiến nghị của đề tài có
giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật trong quá trình
xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật
giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng ở nước ta. Luận văn cũng có thể làm cơ sở để
các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn huyện Hoài Đức nghiên cứu, vận dụng
vào thực tế giải quyết tranh chấp đất đai.
9. Kết cấu của Đề tài:
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải

của các bên. Do đó, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những chính sách pháp luật
đất đai khác nhau, cho dù đất đai là tài sản thuộc sở hữu tư nhân, hay chỉ được giao
quyền sử dụng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân...thì ở nước ta, hiện tượng tranh
chấp đất đai vẫn xảy ra phổ biến, diễn biến phức tạp, ảnh hưởng xấu đến công tác
quản lý nhà nước về đất đai nói chung và việc sử dụng đất nói riêng, gây nhiều bất
ổn đối với đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, khái niệm tranh chấp đất đai tưởng
chừng đơn giản nhưng nhưng lại có nhiều ý nghĩa trong việc phân định thẩm quyền,
xác định nội dung cần giải quyết đối với các tranh chấp đất đai...

8


Theo giải thích của Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp nói chung được hiểu là
việc “Giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào”.1
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Tranh chấp: 1. Giành giật, giằng co
nhau cái không rõ thuộc về bên nào. 2. Bất đồng, trái ngược nhau”2.
Tiếp cận ở góc độ pháp lý thì tranh chấp hợp đồng được hiểu là những xung
đột, bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện các
quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng.
Có thể khẳng định rằng, Trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, thuật ngữ “tranh
chấp đất đai” chưa được chính thức giải thích, mà chủ yếu là chỉ được “hiểu ngầm”
qua các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai, quy định về giải
quyết các tranh chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất. Lần đầu tiên tại
khoản 26 Điều 4 của Luật Đất đai 2003 đã đưa ra định nghĩa và tiếp tục được kế thừa
quy định tại khoản 24 của Điều 3 Luật Đất đai năm 2013, cụ thể như sau: “Tranh
chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai
hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
Như vậy, từ khái niệm này cho thấy tranh chấp đất đai chính là tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Tuy nhiên, khái niệm này chưa thể hiện
tính khoa học cao, chính sự chung chung này đã khiến cho nội dung của tranh chấp

đến việc thực hiện các hợp đồng về đất đai sẽ được hiểu là tranh chấp đất đai, chẳng
hạn tranh chấp về nghĩa vụ nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất giữa các bên tham
gia quan hệ chuyển nhượng - nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hay tranh
chấp về quyền yêu cầu trả công trong hợp đồng ủy quyền quản lý, sử dụng đất… Rõ
ràng, các tranh chấp dạng này là những tranh chấp dân sự thuần túy, và thực tiễn các
vụ việc này đều không được các cơ quan hành chính thụ lý mà được Tòa án nhân dân
thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Như vậy, định nghĩa tranh chấp đất đai theo khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai
2013 do có nội hàm rất rộng nên đã gây nhiều cách hiểu không chính xác. Vì vậy
theo tôi, tranh chấp đất đai là bao gồm tranh chấp quyền sử dụng đất và tất cả các
tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và trong điều kiện của nước ta hiện nay,
cũng nên hiểu tranh chấp đất đai chính là tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh
chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất thì phù hợp hơn. Như vậy, có thể hiểu:
tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích, về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia vào quan hệ đất đai trong quá trình
quản lý và sử dụng đất đai.
Việc nhận thức như vậy là hoàn toàn phù hợp với xu hướng Nhà nước đang
ngày càng mở rộng quyền cho người sử dụng đất.

10


1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Quan hệ đất đai là một dạng đặc biệt của quan hệ dân sự nên bên cạnh những
đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự thì tranh chấp đất đai còn mang những
đặc điểm đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, tranh
chấp kinh tế,...Sự khác biệt đó thể hiện ở những đặc điểm chủ yếu sau:
- Thứ nhất, về đối tượng tranh chấp: Trước khi Hiến pháp năm 1980 ra đời thì
ở nước ta có 3 hình thức sở hữu về đất đai đó là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và
sở hữu cá nhân nên đối tượng của tranh chấp chính là quyền sở hữu đất đai. Từ Hiến

trọng không thể thay thế mà nó đã trở thành một thứ hàng hoá đặc biệt. Do sự tác
động của quy luật thị trường nên giá đất thường xuyên biến động, vì vậy việc quản lý
và sử dụng đất không chỉ là việc khai thác giá trị quyền sử dụng đất mà còn cả phần
giá trị sinh lời của nó.
1.1.1.3. Các dạng tranh chấp đất đai
Xuất phát từ yếu tố đất đai là một loại tài sản đặc biệt, không thuộc quyền
sở hữu của các bên tranh chấp nên chúng ta có thể chia tranh chấp đất đai thành
các loại sau:
Một là, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất: là việc các
bên tranh chấp trong quá trình thực hiện các giao dịch về đất đai. Loại tranh chấp này
thường là do các bên thực hiện việc chuyển nhượng khi chưa có đầy đủ điều kiện
pháp luật cho phép; Thực hiện không đúng hoặc không thực hiện đầy đủ các điều
khoản quy định trong hợp đồng; Không tuân thủ các quy định của pháp luật trong khi
giao dịch. Đây là loại tranh chấp có mức độ phức tạp nhất.
Hai là, các bên tranh chấp về ranh giới giữa những thửa đất được phép quản
lý và sử dụng. Loại tranh chấp này thường là do các bên sử dụng đất không thoả
thuận được với nhau hoặc là do một bên tự ý thay đổi ranh giới sử dụng trong quá
trình đất đai được chuyển nhượng qua tay nhiều người, cho thuê, cho thuê lại, cũng
có thể là do sai sót từ phía cơ quan nhà nước trong quá trình đo đạc, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Ba là, tranh chấp quyền sử dụng đất trong quan hệ thừa kế. Loại tranh chấp
này phát sinh trong trường hợp người chết có quyền sử dụng đất đai nhưng khi chết
không để lại di chúc hoặc có để lại di chúc nhưng di chúc không hợp pháp một phần
hay toàn bộ mà các đồng thừa kế lại không tự thoả thuận được với nhau nên khởi
kiện ra toà. Loại tranh chấp này có trường hợp có tài sản gắn liền với đất, có trường
hợp trên đất tranh chấp không có tài sản.

12



13


- Tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến việc tặng cho quyền sử dụng
đất: Trong giao dịch tặng cho, nhất là tặng cho nhà đất, thường thì người tặng cho có
điều kiện đi kèm. Song song với việc được nhận nhà đất thì người được tặng cho
phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định nào đó, ví dụ như nuôi dưỡng cha mẹ cho đến
khi chết chẳng hạn. Hoặc cha mẹ tặng cho con khi con lập gia đình với mong muốn
vợ chồng con chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Loại tranh chấp này thường phát
sinh khi người được tặng cho không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
của mình đối với người tặng cho nên người tặng cho kiện đòi lại. Hoặc khi vợ chồng
con ly hôn, cha mẹ không cho nữa mà đòi lại.
- Tranh chấp đất đai trong trường hợp đòi lại đất cho mượn, cho ở nhờ. Loại
tranh chấp này phát sinh trong trường hợp trước đây người có quyền sử dụng đất đã
cho mượn, cho thuê nhà đất, cho ở nhờ nhưng nay những người mượn, thuê, ở nhờ
không chịu trả.
- Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền trên đất của dòng
họ, nhà thờ, thánh thất, chùa chiền. Do hoàn cảnh đất nước, do yếu tố lịch sử để lại,
các cơ sở này được Nhà nước mượn, trưng dụng vào các mục đích khác nhau không
trả, nay họ đòi lại.
Sáu là, tranh chấp giữa các đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã với nhau.
Đây thường là những tranh chấp diễn ra ở các khu vực có vị trí thuận lợi cho phát
triển kinh tế địa phương nhưng tại đây sự phân chia ranh giới hành chính chưa rõ
ràng dẫn đến tranh chấp phát sinh. Đây là tranh chấp giữa những người được Nhà
nước giao quản lý đất đai.
Bảy là, tranh chấp do việc thực hiện quyền sử dụng đất bị cản trở. Loại tranh
chấp này phát sinh khi một bên được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất nhưng
lại không thể sử dụng được do bị người khác cản trở.
Tám là, tranh chấp liên quan đến việc bồi thường giải phóng mặt bằng khi
Nhà nước thu hồi đất. Thông thường đây là các tranh chấp liên quan đến mức độ và

làm thay đổi chủ thể sử dụng đất, về ranh giới đất đai gây ra những dạng tranh chấp
như: Tranh chấp giữa chủ sử dụng trước đây (đi công tác, di cư, chạy nạn v.v..) với
người đang chiếm hữu đất, tranh chấp về ranh giới đất đai do người có đất đi sơ tán,
chạy loạn khá lâu v.v.. Việc thay đổi chế độ sở hữu về đất đai (từ đất đai thuộc nhiều
hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân trước Hiến pháp năm 1980, đến đất đai

4 Xem thêm: Nguyễn Quang Tuyến (2008), “Tranh chấp đất đai và kiếu kiện kéo dài: Những nguyên nhân có
tính lịch sử” báo cáo tham luận tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và kiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và
giải pháp”, tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc.

15


thuộc sở hữu toàn dân - từ sau Hiến pháp năm 1980) đã khiến nhiều những tranh chấp
về việc trưng thu, trưng dụng, thu hồi đất xảy ra. Về chính sách kinh tế, các chủ trương
hợp tác hóa trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng các hợp tác xã đã gây ra không ít
các tranh chấp về đất nông nghiệp ở khu vực nông thôn.
Các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai qua các thời kỳ lịch sử do các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền khác nhau ban hành nên có sự không thống nhất,
đồng bộ về mặt nội dung. Ví dụ như: Theo Hiến pháp năm 1959 thì ở nước ta có 3
hình thức sở hữu đất đai đó là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân.
Do đó, việc mua bán chuyển nhượng đất đai được phép thực hiện, không bị cấm.
Thời kỳ sau Hiến pháp năm 1980 cho đến trước khi Luật Đất đai năm 1993 ra đời
Nhà nước trở thành đại diện duy nhất của chủ sở hữu đối với đất đai. Pháp luật về đất
đai nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng, phát canh thu tô dưới mọi hình thức.
Kể từ khi Luật Đất đai năm 1993 ra đời và đặc biệt là sau khi Luật Đất đai năm 2003
có hiệu lực thì đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
nhưng người sử dụng đất lại được phép thực hiện đầy đủ các quyền của người sở hữu
đối với đất đai mà mình đang sử dụng, quyền sử dụng đất đai trở thành một loại hàng
hóa. Chính vì sự thiếu đồng bộ này nên thực tế các quan hệ đất đai nảy sinh qua các

nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chậm và trong một số trường hợp không chính xác.
Chính sách đất đai và những chính sách có liên quan đến đất đai chưa nhất
quán, đồng bộ, có mặt không rõ ràng và có biến động lớn. Quy hoạch sử dụng đất đai
còn nhiều bất cập. Thực tế áp dụng các chính sách còn tùy tiện dẫn đến tình trạng
người có khả năng sản xuất nông nghiệp thì thiếu ruộng, ngược lại người không có
khả năng sản xuất vẫn được chia ruộng dẫn đến tình trạng sử dụng đất kém hiệu quả.
Một số nơi có những chủ trương hoặc việc làm sai lầm làm cho nhân dân hiểu
rằng, Nhà nước có chủ trương trả lại ruộng đất cũ, trả lại đất ông cha. Việc Nhà nước
thường xuyên tách, nhập hoặc thành lập các đơn vị hành chính mới, việc xác định địa
giới không làm kịp thời hoặc không rõ ràng, làm cho tình hình tranh chấp đất đai
phức tạp thêm.
Thứ ba, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường: Việc kinh tế phát triển
mạnh mẽ, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã về đến cả những vùng nông thôn đã
mang lại không ít đổi thay cho bộ mặt đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động
tích cực còn không ít hậu quả từ mặt trái của cơ chế thị trường. Một trong số đó là
tình trạng tranh chấp đất đai đang có chiều hướng gia tăng. Giá đất leo thang, “sốt
đất” cục bộ diễn ra liên tục. Chỉ cần một con đường mới mở, một dự án phát triển

17


công nghiệp chuẩn bị được triển khai lập tức giá đất khu vực đó tăng lên gấp hàng
chục lần. Người nông dân đua nhau “đổi đất thành vàng”. Có những thửa đất trước
đây hầu như không ai ngó ngàng gì đến nay trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý.
Thậm chí có khi ranh giới thửa đất giữa hai gia đình chỉ tính bằng phân thì nay cũng
tranh chấp trở nên gay gắt qua nhiều năm. Nói tóm lại, tranh chấp đất đai do ảnh
hưởng của cơ chế thị trường là một vấn đề mà chúng ta sẽ phải đối mặt và giải quyết
không chỉ trong một năm, hai năm mà là trong rất nhiều năm nữa.
Ngoài ra, ở một số địa phương hiện nay đang quy hoạch đô thị dẫn đến việc đền

1.1.2. Giải quyết tranh chấp đất đai
1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai
Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn của hai hay nhiều bên trong quan hệ
pháp luật đất đai trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tranh chấp. Qua việc giải quyết tranh chấp đất đai mà các quan hệ đất đai được
điều chỉnh phù hợp với lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội và của người sử dụng
đất, mang lại sự ổn định trong nội bộ nhân dân, làm cho những quy định của pháp
luật đất đai được thực hiện trong cuộc sống.
Có thể hiểu “Giải quyết tranh chấp đất đai là giải quyết bất đồng, mâu thuẫn
trong nội bộ nhân dân, tổ chức trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai và trên cơ
sở đó phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị xâm hại”.5
Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là dùng những cách thức phù hợp trên
cơ sở pháp luật nhằm giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân,
phục hồi các quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị xâm hại, góp phần tăng cường
pháp chế trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Hay nói cách khác hoạt động giải
quyết tranh chấp đất đai cần phải tạo ra được yếu tố dung hòa về mặt lợi ích mà các
bên tranh chấp có thể chấp nhận được.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai, góp phần thực
hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phù hợp với thực tiễn và các quy định của
pháp luật, đảm bảo đúng với tinh thần của nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định
của Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 đã sửa
đổi, bổ sung những quy định mới về giải quyết tranh chấp đất đai. Theo đó, tranh

5 Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.74.

19


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status