Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2a - Pdf 43

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIAO TIẾP
CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở LỚP 2A
TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH TÂN 1”.

Người thực hiện: Bùi Anh Đào
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thanh Tân 1
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn): Khác

THANH HÓA NĂM 2017

1


MỤC LỤC
Mục
A
I
II
III
IV
B
I
II
1

2
2
2
2
3
4
5
6
9

Giải pháp 4: Rèn kĩ năng giao tiếp cho HSDTTS thông qua hoạt
động học tập.

11

Giải pháp 5: Rèn kĩ năng giao tiếp cho HSDTTS thông qua các
HĐNGLL.

14

Giải pháp 6: Mở rộng môi trường giao tiếp ở gia đình và cộng
đồng.

16

Giải pháp 7: Tổ chức thi đua, động viên khen thưởng.

17

Hiệu quả của SKKN

Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu
số (vốn chịu nhiều thiệt thòi về hoàn cảnh gia đình, địa bàn…) là việc làm
thiết thực nhằm giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, biết bày tỏ sự cảm thông, thương
lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiểm soát cảm
xúc... tạo được niềm tin, tích cực học tập và rèn luyện ở các em. Góp phần
hình thành một trong những kĩ năng sống cơ bản ban đầu phù hợp với lứa
tuổi, phù hợp với đặc điểm từng em góp phần tạo điều kiện tốt cho các em
học lớp trên đáp ứng yêu cầu của giáo dục hiện nay và phát triển nền tảng
nguồn nhân lực có chất lượng sau này.
Ngay trong Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 về
Đánh giá học sinh Tiểu học, thì cũng quy định đánh giá về “Năng lực” của
học sinh tiểu học, trong đó tiêu chí “hợp tác” được biểu hiện cụ thể như:
Mạnh dạn giao tiếp trong hợp tác, trình bày rõ ràng, ngắn gọn, nói đúng nội
dung cần trao đổi, ngôn ngữ phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng.
Không ai sinh ra đã sở hữu kỹ năng giao tiếp hoàn hảo. Học tập là việc làm
suốt đời, ông cha ta có câu: “Học ăn học nói – Học gói học mở”. Chính vì
thế, ngoài việc cung cấp cho các em kiến thức cần thiết, tôi luôn có trăn trở:
Làm thế nào để nâng cao kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số
trong lớp? Làm thế nào để học sinh biết cách vận dụng giao tiếp vào trong
cuộc sống hằng ngày? Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ
năng giao tiếp cho học sinh là việc làm rất cần thiết và vô cùng quan trọng,
nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:
4


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số
ở lớp 2A trường Tiểu học Thanh Tân 1”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp người giáo viên có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học sinh hơn để
từ đó phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số một cách tốt

trò quan trọng trong việc phát triển về tâm sinh lý cho trẻ. Không có một sự
lo lắng và khó chịu nào lớn hơn là tình trạng không hiểu được nhau! Trẻ
không hiểu người lớn muốn gì ở mình và người lớn cũng không hiểu trẻ cần
điều gì nếu như không xây dựng được một mối quan hệ tốt thông qua những
kỹ năng giao tiếp hiệu quả. Đến trường tiểu học, không gian được mở ra đối
với các em, các em tham gia nhiều hơn vào các mối quan hệ thầy cô, bạn bè.
Lúc ở nhà thì tình cảm của trẻ đối với cha mẹ, người thân là chủ yếu thì đến
trường tình cảm của các em đối với thầy cô giáo, bạn bè, cộng đồng… là rất
lớn.
- Một lớp học có nhiều học sinh dân tộc thiểu số (DTTS) giao tiếp chưa tốt thì
trong đó có trách nhiệm rất lớn thuộc về giáo viên chủ nhiệm. Người giáo
viên phải luôn luôn bên cạnh các em, luôn là nguồn động viên, khuyến khích
cổ vũ, hướng dẫn các em nói điều hay lẽ phải, chỉ cho các em thấy mặt hạn
chế trong giao tiếp để kịp thời khắc phục.
II. THỰC TRẠNG:
1.Thực trạng chung việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh DTTS:
- Là một trường đóng trên địa bàn xã miền núi thuộc vùng đặc biệt khó khăn
135 của Huyện Như Thanh. Địa bàn rộng, dân số đông, giao thông đi lại khó
khăn, trường có nhiều khu lẻ. Học sinh DTTS của trường là 223/367HS = 60,7%
người dân tộc Thái chiếm chủ yếu, bên cạnh đó lại có cả một bộ phận dân tái
định cư của người dân tộc Thái chuyển từ Thường Xuân về, các em hay phát âm
sai: l/đ; l/n; d/r, một số từ ngữ dùng không đúng ngữ cảnh bị/được: bị ốm thì lại
nói được ốm, bị phạt thì lại nói được phạt… Mỗi một em học sinh ở vùng đặc
biệt khó khăn nói chung, các em học sinh DTTS của trường chúng tôi nói riêng,
biết dùng tiếng phổ thông để diễn đạt một nội dung cho đầy đủ các ý là ít có em
làm được như vậy. Các em có biểu hiện, mức độ khó khăn khác nhau trong giao
tiếp. Học sinh lớp 3,4,5 thì khả năng giao tiếp của các em có tốt hơn so với học
sinh lớp 1,2 do vốn từ, sự tiếp cận với cộng đồng bên ngoài còn hạn chế.
- Hầu hết giáo viên yêu nghề mến trẻ, tận tụy với công việc, chăm lo chuyên
môn. Tuy nhiên cũng có nhiều giáo viên còn gặp khó khăn trong việc tìm ra biện

vươn lên. Tuy nhiên phần lớn học sinh DTTS là con gia đình gặp khó khăn về
kinh tế, trình độ dân trí còn hạn chế, cha mẹ đi làm nương rẫy cả ngày nên ít
được tiếp xúc với người Kinh, ít tham gia vào các hoạt động ngoại khóa nên sự
mạnh dạn khi hoạt động với bạn bè là chưa có.
- Đa phần các em học sinh DTTS lớp 2A còn sợ sệt, nhút nhát, ngại giao tiếp,
nói năng cộc lốc… Có một số em có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy, tuy
nhiên, chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét. Bên
cạnh đó có em lại hạn chế về phát âm như nói ngọng, hở hàm ếch bẩm sinh. Vì
vậy việc gặp khó khăn trong giao tiếp phần nào dẫn đến kết quả học tập của
không ít em chưa cao.

7


- Môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt của học sinh DTTS nói chung, lớp 2A
nói riêng rất hạn hẹp và không thuần nhất: Trong khi học sinh bình thường
được học tập, giao tiếp trong môi trường thuần tiếng Việt thì môi trường
giao tiếp của các em DTTS hết sức hạn hẹp và thiếu tính tích cực. Ở trường,
khi học trên lớp, chủ yếu các em được nghe cô giáo giảng bài bằng tiếng
Việt, được luyện đọc nhưng không hiểu nội dung bài đọc; được luyện viết
nhưng chỉ luyện để viết đúng con chữ mà không thể viết thành bài văn hoàn
chỉnh được. Còn khi ra chơi, các em lại nói với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Về
với gia đình và cộng đồng, các em lại sống trong môi trường thuần tiếng dân
tộc, vốn tiếng Việt tạm thời bị chìm vào dạng tiềm năng, mỗi ngày các em
chỉ sử dụng tiếng Việt trong khoảng thời gian hạn hẹp trong môi trường học
tập. Đó chính là nguyên nhân, là rào cản lớn nhất của sự hình thành kỹ năng
sử dụng tiếng Việt của các em DTTS.
Thiết nghĩ để rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh DTTS đòi hỏi người giáo viên
phải áp dụng nhiều biện pháp, hình thức tổ chức, cần sự kiên trì tỉ mỉ bằng
những câu nói, hành động, việc làm của giáo viên, bạn bè, của tập thể lớp, của

không tày học bạn”. Nghe thầy - đua bạn sẽ giúp các em mạnh dạn, năng
động hơn rất nhiều trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói. Sự giúp đỡ động
viên của các bạn trong lớp, trong nhóm sẽ khích lệ, hỗ trợ các em tự tin hơn
trước lời phát biểu của mình.
Giải pháp 2: Xây dựng môi trường giao tiếp thân thiện, lành mạnh:
1.2, Tạo sự gần gũi, thân thiện trong giao tiếp:
- Khi mà nơi: “Trường học thực sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các
thầy cô là những người thân trong gia đình”; hay “Mẹ của em ở trường là cô
giáo mến thương” thì khi đó trường học thật sự là nơi các em hàng ngày muốn
đến, để thực sự “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.

9


- Tôi luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh
mắng hoặc dùng lời lẽ thiếu tôn trọng với các em. Thông qua cử chỉ, lời nói,
ánh mắt, nụ cười mỗi buổi đến lớp tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn là nơi để
các em có thể bày tỏ những khó khăn trong giao tiếp, trong học tập, trong
cuộc sống của bản thân mình. Vì tôi hiểu “Chỉ có tấm lòng mới đánh thức
được tấm lòng”.

Cô trò cùng nhau vui vẻ trong học tập và vui chơi.

- Bản thân là người dân tộc Kinh, không biết giao tiếp bằng tiếng TDTS, nhưng
do công tác và chung sống ở địa phương lâu năm nên phần nào tôi hiểu cách
sinh hoạt, tập quán người DTTS ở địa phương.
- Tôi cố gắng đi sớm hơn để cô và trò thường xuyên hỏi han, cùng chơi các trò
chơi với các em, trao đổi, trò truyện, những vấn đề trong học tập cũng như trong
cuộc sống hằng ngày bằng tiếng Việt, từ đó đã tạo nên sự gần gũi giữa cô và trò
cũng như rèn thêm cho học sinh sự mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Cũng từ

như rèn thêm cho học sinh về ngôn ngữ nói tiếng phổ thông cho các em. Các em
không còn tìm mọi cách để đối phó với sự việc, nhiệm vụ được giao. Tôi như là
một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của các em, khi vui,
buồn các em đã mạnh dạn chia sẻ với cô, luôn tin rằng cô sẽ giúp đỡ lúc gặp khó
khăn khi ở trường.
- Khi chiếm được niềm tin của trò, tôi hướng cho các em thực hiện hoạt động
tích cực một cách linh hoạt gợi mở. Lúc nào thì nghiêm nghị nhắc nhở, lúc nào
thì gần gũi, lúc nào thì động viên kịp thời, lúc nào thì phê bình nhẹ nhàng súc
tích, ngắn gọn, có lúc thì phải liên hệ tới việc em đang làm với một tấm gương
hay một điển hình tiến bộ.
- Tôi đã tạo không gian thân thiện, gần gũi qua việc trang trí lớp. Qua các góc
học tập: Em yêu Tiếng Việt, Khám phá thế giới tự nhiên, Góc cộng đồng, Hộp
11


thư vui, Cùng em sáng tạo…gần gũi, thân thiết mang lại hiệu ứng ấm áp, và
cũng là nơi để các em thể hiện khả năng sáng tạo, tâm tư của mình như: Trưng
bày và giới thiệu sản phẩm tự làm của cá nhân, của nhóm, viết thư và nói tâm tư,
những điều em muốn nói của mình với bạn với cô…

Một số góc học tập được trang trí trong lớp.
2.2, Sự mẫu mực của giáo viên trong giao tiếp:
- Đối với trẻ thầy cô là hình mẫu lí tưởng để các em học tập và làm theo, nên
mọi cử chỉ, lời nói việc làm của giáo viên cần đúng chuẩn, ngay cả trong giao
tiếp hàng ngày hay trong giảng dạy (nhất là trước mặt học sinh).
- Tôi luôn xưng cô- gọi con, không nói bậy, nói lóng, không dùng kính ngữ, cố
gắng nhẹ nhàng ngay cả khi học sinh mắc lỗi, yêu cầu học sinh cũng “thưa cô –
xưng con”, khuyến khích học sinh trong lớp “xưng mình - gọi bạn”, không nên
“mày-tao”, hay cách xưng ngôi không rõ ràng ví dụ:“ bạn ni cho bạn ni mượn
bút với”. Với mục tiêu “mưa dầm thấm lâu”, không nóng vội rồi sẽ cho chúng

người khác hiểu, để trẻ cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới
xung quanh các em. Đây là kĩ năng cơ bản và khá quan trọng nó có vị trí chính
yếu khi so sánh với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết, làm toán hay nghiên
cứu khoa học. Khi các em thấy thoãi mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến
nào đó, các em sẽ dễ dàng học và sẽ sẵn sàng hợp tác mọi thứ.
Với đặc điểm lứa tuổi lớp 2, thì phạm vi giao tiếp còn rất hạn chế cũng như đơn
giản, tôi yêu cầu các em cần:
+ Biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp và bạn bè thầy cô giáo.
+ Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng.
+ Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi.
+ Biết kêu gọi sự giúp đỡ khi gặp khó khăn, khi gặp trường hợp bị xâm hại.
+ Không cướp lời, không nói leo khi người khác đang nói.
+ Không tự tiện lấy và sử dụng đồ dùng của người khác.
+ …..
- Thực tế trong nhà trường, thông qua các môn học, các hoạt động tập thể HS
được dạy cách lễ phép nhưng khi đi vào thực tế, nhiều em thiếu kỹ năng giao
tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu mình với người khác, thậm chí
có nhiều em còn không dám nói hoặc không biết nói lời xin lỗi khi các em làm
sai.
3.2, Chú trọng rèn luyện một số kĩ năng trong giao tiếp:
* Rèn kỹ năng mạnh dạn:
- Vào đầu năm học những tuần đầu tiên tôi thường cho các em tự giới thiệu
trước tập thể lớp vào giờ sinh hoạt 15 cũng như các tiết sinh hoạt cuối tuần như:
+ Em tên là gì? Em học lớp mấy? Cô giáo chủ nhiệm em tên gì?
+ Em học trường nào? Thầy hiệu trưởng tên là gì?
+ Năm nay em bao nhiêu tuổi?
+ Em ở bản nào? Cách trường xa hay gần? Ai hay đưa em đi học?
13



Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
- Hội thoại là một trong những hình thức giao tiếp quan trọng, diễn ra thường
xuyên liên tục của con người. Tôi rèn cho các em nắm được các điều cơ bản
nhất sau trong hội thoại:
+ Biết xác định đối tượng giao tiếp: Đối tượng giao tiếp là ai? để có cách xưng
hô nói năng phù hợp, đúng mực.
Người dân tộc Thái có những cách xưng hô khá riêng, như ai sinh ra trước thì
làm anh, làm chị không phân định vai vế theo huyết thống cành trên cành dưới
như người dân tộc khác. Từ “nó” được sử dụng làm ngôi thứ hai khá phổ biến
cho tất cả đối tượng giao tiếp. Chính vì vậy tôi đã rèn cho các em cách xưng hô
sao cho phù hợp và một cách đúng mực nhất có thể, để các em dễ nhớ, dễ hiểu
và thực hiện.
14


VD: Với ông bà, cô, gì, chú, bác, người lớn tuổi phải xưng cháu.
Với thầy cô phải xưng con hay em.
Với anh chị phải xưng em.
Với bạn bè phải xưng mình, tớ.
Với em út nhỏ tuổi hơn phải xưng anh, chị.
+ Xác định nội dung giao tiếp: Nói về nội dung, chủ đề, lĩnh vực gì?…để khi
nói chuyện đúng trọng tâm tránh lan man, lạc đề trong cuộc hội thoại.
VD: Cô hỏi về em thích học môn nhất, thì học sinh lại trả lời về các sở thích
hàng ngày ở nhà, như xem phim, hay thích ăn kem…Hay trong giờ học cô gọi
lên bảng chữa bài thì học sinh lại mang vở lên nộp v.v…
+ Biết sử dụng ngôn ngữ lời nói và hình thể trong giao tiếp: Để học sinh có kỹ
năng giao tiếp tốt, giáo viên cần chú ý cho học sinh phải sử dụng ngôn ngữ lịch
sự, văn minh, không nói tục, chửi bậy, chửi thề, không nói lóng, không dùng
kính ngữ…
VD: Người lớn gọi phải dạ, thưa không được ừ, hay gật, lắc đầu. Không được

chơi tự do. Trong việc ăn uống, vui chơi cũng có những mốc thời gian, sẽ có
những khoảng thời gian nhất định cho việc ăn uống chơi đùa và học tập. Các em
cũng cần có một cái lịch hoạt động cho các công việc của mình từ sáng đến
chiều (lập thời gian biểu) để có được sự ổn định và hình thành tư duy logic phù
hợp. VD: + Trong giờ học không được nói chuyện, làm việc riêng, muốn có ý
kiến phải xin phép.
+Trong giờ chào cờ không được nghịch, trao đổi nói chuyện riêng phải thể
hiện sự nghiêm trang.
+ Đến nhà có người ốm đau, gia đình có chuyện buồn…thì không được
cười đùa, nghịch, nói chuyện ồn ào, mà cần biết tôn trọng thể hiện sự sẻ chia…
Giải pháp 4: Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số thông qua
hoạt động học tập:
4.1, Rèn kĩ năng giao tiếp qua việc tích hợp vào các môn học:
- Để giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận dụng
vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Tự nhiên
và xã hội; An toàn giao thông.... để những giờ học sao cho các em được làm,
được nói, được trao đổi để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực:
+ Trong môn Tiếng Việt- Lớp 2 tôi luôn chú ý đến việc bổ sung kiến thức tiếng
Việt như ngữ âm, ngữ điệu đọc qua các tiết Tập đọc, luật chính tả trong các tiết
Chính tả, Tập viết, bổ sung vốn từ trong khi học Luyện từ và câu. Trong Tập làm
văn có nhiều bài học mà thông qua đó các kĩ năng giao tiếp xã hội được rèn
luyện như: Chào hỏi, tự giới thiệu; Nói lời cảm ơn, xin lỗi; Biết mời nhờ, nói lời
yêu cầu đề nghị; Chia buồn an ủi; Đáp lời chào, đáp lời cảm ơn; Biết đáp lời
phủ định; Biết đáp lời chia vui, đáp lời đồng ý...
+ Qua môn Đạo đức - Lớp 2 các câu chuyện, tình huống gắn với các tình huống
giao tiếp như: Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại; Lịch sự khi đến nhà người
khác… Thông qua bài học các chuẩn mực hành vi đạo đức, pháp luật xã hội trở
thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Từ việc xử lí, thực
hành các kiến thức liên quan, học sinh sẽ rút ra: Tại sao phải lịch sự khi nhận và
gọi điện thoại? cách gọi và nhận điện thoại như thế nào cho lịch sự … kiến

cuối tiết. Em nào nêu được nhiều câu yêu cầu, đề nghị lịch sự nhất sẽ được
tuyên dương. Không những vậy bản thân tổ chức cho các em trao đổi:
“Theo em, như thể nào là lịch sự khi yêu cầu, đề nghị?” “Em đã lịch sự khi yêu
cầu đề nghị chưa?”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
- Học sinh có thể nói sai, GV cần theo dõi và giúp các em sửa lại cho đúng.
Qua hoạt động dạy học theo gợi ý trên, mục tiêu bài học vẫn đạt được và điều
quan trọng là các em biết sử dụng tiếng Việt để học tập; giờ học vui, sinh động
và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, dạy học theo hướng tích hợp tiếng Việt vào các môn
học sẽ khó khăn cho GV và HS khi gặp những bài học cung cấp khái niệm trừu
tượng. Để khắc phục khó khăn này, cần có sự chỉ đạo giảm tải hoặc “dễ hóa” các
vấn đề quá tải được trình bày trong SGK.
4.2, Đa dạng hóa phương pháp và hình thức tổ chức dạy học:
- Tổ chức dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự tự học, tự chiếm lĩnh
tri thức thông qua sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó nó phát huy được tính tự
học và tự trình bày trước tập thể rất nhiều cũng từ đó rèn cho các em tính mạnh
dạn trước tập thể.

17


- Trong qua trình giảng dạy, tôi thường xuyên áp dụng phương pháp dạy học đổi
mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức
cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể
chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình
huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,…Sử dụng
nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo dự án,
đóng vai, trò chơi,…
+ Thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm là hình thức dạy học rất có ích trong việc
hình thành cho học sinh khả năng giao tiếp, hợp tác, thích ứng và độc lập suy
nghĩ. Vì vậy, đối với các môn học mục tiêu là rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh



lớp. Nội dung giới thiệu phải chính xác, cách giới thiệu rõ ràng. Cho nhiều học
sinh làm phóng viên, sau đó bình chọn phóng viên giỏi nhất. Các em làm việc
tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn bè,
với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra
được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động
tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh
nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
- Chính thông qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trên,
học sinh có cơ hội thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp
với lứa tuổi. Đó là lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn
minh xã hội. Lối sống, hành vi như: gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc
bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn… Lúc đầu các em rất ái ngại
không tự tin khi đóng vai, bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng giáo viên đã kịp thời
nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi
trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái
ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc
gọn, mạnh dạn hơn.
Giải pháp 5: Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số thông qua
hoạt động ngoài giờ lên lớp:
5.1, Tạo môi trường giao tiếp tự nhiên, thân thiện cho HS:
- Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động các
phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết “đi
thưa về hỏi”, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm,
cảm ơn khi được giúp đỡ hay tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với
thầy cô và những người lớn tuổi,...
- Những buổi chào cờ, tôi luôn khuyến khích các em xung phong trả lời những
câu hỏi mà thầy Phan Trọng Hải( Hiệu trưởng ), thầy Lê Hồng Huyên (Tổng phụ
trách Đội) hay hỏi, phải lắng nghe các nội dung, hoạt động cần làm trong tuần

cầu các em nói với nhau bằng tiếng Việt. Qua trò chơi giúp các em phát triển cả
giao tiếp lẫn trí tuệ, thể chất....
5.2, Rèn kĩ năng giao tiếp qua hoạt động phong trào nhằm tạo cơ hội cho HS
hòa nhập phát triển giao tiếp:
- Trong môi trường giao tiếp tự nhiên, không bị cưỡng bức bởi nội dung bài
học, các em sử dụng tiếng Việt sẽ dễ dàng hơn. Tuy nhiên, thay đổi được thói
quen hành vi này thường gặp khó khăn ở thời gian đầu. Khi nhà trường đưa ra
được các chương trình sinh hoạt văn hóa tích cực ở địa phương vào trong các
hoạt động tập thể, tôi khuyến khích các em (nhất là các em học sinh DTTS)
trong lớp tích cực tham gia, chính vì thế đã lôi cuốn được hứng thú tham gia của
học sinh, từ đó sẽ giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp.
- Thông qua trải nghiệm bằng thực tế như tôi đấu mối với Tổng phụ trách Đội
tổ chức cùng học sinh đi dâng hương, chăm sóc Đài tưởng niệm liệt sĩ xã Thanh
Tân, Trước buổi đi tôi dặn dò các em những việc nên làm và những việc không
được làm khi ra Đài tưởng niệm. Sau buổi đi tôi có đưa ra những câu hỏi để các
em nêu ý nghĩa của việc làm của mình.
- Việc tổ chức được thường xuyên các hoạt động tập thể, mang tính cộng đồng
sẽ là sân chơi bổ ích, kỹ năng sử dụng TV của HS DTTS sẽ phát triển nhanh và
bền vững hơn, sẽ giúp cho các em có công cụ học tập tốt hơn.
20


Đội văn nghệ lớp 2A tham gia khai trương làng văn hóa
Thôn Tân Tiến- xã Thanh Tân
Giải pháp 6: Mở rộng môi trường giao tiếp ở gia đình và cộng đồng:
- Đây là vấn đề khó thực hiện thành công, bởi môi trường giao tiếp của người
DTTS thường thể hiện nét đặc trưng riêng với những phong tục tập quán riêng.
Trong đó, ngôn ngữ là một yêu tố bản sắc phi vật thể.
Để hướng tới vì sự tiến bộ của con em mình trong học tập, thông qua các buổi
hội nghị phụ huynh, các buổi gặp gỡ trao đổi riêng với phụ huynh tôi khéo léo

ngừa và phát hiện sớm.
Giải pháp 7: Tổ chức thi đua, động viên khen thưởng
- Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng,
ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện
cho các em lớp mình phụ trách. Tôi trao đổi với Ban chấp hành hội phụ huynh
cùng phối hợp và dành một khoản riêng để khen thưởng kịp thời động viên các
em để tạo cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện.
-Tôi theo dõi hằng ngày, các em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết
sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một
bông hoa điểm tốt. Vì vậy, các em thi đua nhau “nói lời hay, làm việc tốt” và
cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được bông hoa điểm tốt. Mỗi tháng tổng kết
một lần để khen thưởng những em tiến bộ trong giao tiếp, đã đạt nhiều hoa điểm
tốt bằng những phần quà nhỏ. Những món quà tuy nhỏ nhưng cũng là nguồn
động viên kịp thời khích lệ các em. Đó cũng là cách ghi nhận sự tiến bộ của các
em, là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em đã
nhanh nhẹn hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
- Những câu nhận xét hàng ngày của tôi: Cô rất thích câu trả lời của con; Hôm
nay con trả lới đã tiến bộ hơn rất nhiều; Hôm nay con trả lời rất gỏi làm cô rất
ngạc nhiên; Cô tin là lần sau con sẽ nói rõ ràng hơn; Chỉ là con chưa tập trung
cô tin con làm được mà; Nếu con cố gắng sau này sẽ có thể làm người dẫn
chương trình MC giỏi; Cô cảm thấy tự hào về con…nó giống như những viên
thuốc bổ, là những hạt giống tâm hồn được gieo vào trí não tuổi thơ của trẻ.
Đây chính là những dưỡng chất nuôi dưỡng hứng thú học tập, tạo dựng nhân
bản niềm tin, kích hoạt sự phát triển hành vi nhân cách tốt hơn nhiều là sự ra
lệnh, bắt ép hay trách phạt của giáo viên, điều này đặc biệt rất quan trọng đối với
học sinh DTTS có nhiều khó khăn, lúng túng trong giao tiếp. Chuyên gia tâm lí
học lâm sàng trẻ em PGS.TS Nguyễn Công Khanh từng nói: “Lời nói ảnh
hưởng đến suy nghĩ, xúc cảm, tình cảm. Xúc cảm, tình cảm ảnh hưởng đến hành
vi. Hành vi tích cực, tự giác được lặp lại, được cổ vũ chuyển thành thói quen
22

chất, đặc biệt là tiêu chí “hợp tác” của đánh giá về Năng lực đạt Hoàn thành
100%, trong đó Hoàn thành tốt đạt trên 75% vượt kế hoạch về chỉ tiêu đăng kí
giáo dục toàn diện với nhà trường.
C. KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
- Việc giáo dục kĩ năng giao tiếp tích cực đem đến cho các em học sinh DTTS
được nhiều điều tốt đẹp như: Các em có nhiều cơ hội chia sẻ, bày tỏ, được mọi
người quan tâm, tôn trọng và lắng nghe ý kiến; tích cực chủ động hơn trong học
23


tập và rèn luyện; tự tin trước mọi người; khả năng của trẻ được phát huy. Về lâu
dài, tạo được môi trường sống hoà bình, sống vì mọi người, thấy được an toàn,
được tôn trọng lẫn nhau, giải quyết được các xung đột hay mâu thuẫn thông qua
thương lượng, ngoại giao. Từ đó trẻ thích học tập, ham hoạt động; dần hình
thành kĩ năng sống cho học sinh. Chúng ta sẽ thành công và đạt hiệu quả cao
trong công tác giáo dục. Hình thành những con người có nhân cách mới, ứng xử
tiến bộ với môi trường sống, với xã hội.
- Hiệu quả giáo dục kĩ năng không thể đo đếm được bằng những con số chính
xác, nhưng được thể hiện: các em có ý thức, thái độ đúng mực với mọi người
trong gia đình; thầy cô, người lớn tuổi, luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói
năng... đó chính là hiệu quả từ việc giáo dục, đào tạo kĩ năng sống mạng lại.
2. Kiến nghị
- Đối với GV chủ nhiệm: phải thật sự tâm huyết, trăn trở, yêu thương học sinh
cần có nghệ thuật riêng trong giáo dục, rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh
nói chung và học sinh DTTS nói riêng.
- Đối với cha mẹ học sinh: Cần động viên, gần gũi quan tâm hơn nữa tới việc
tự học, tự rèn ở nhà của các em. Tạo điều kiện tốt nhất cả về vật chất, tinh
thần, môi trường giáo dục tích cực để các em được rèn kĩ năng giao tiếp và
phát triển một cách toàn diện. Luôn giữ mối liên hệ với giáo viên để cùng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status