Tạo hứng thú học tập và phát huy khả năng sáng tạo cho học sinh trong một số bài dạy bằng sơ đồ tư duy ở môn ngữ văn - Pdf 43

MỤC LỤC
I. Mở đầu……………………………………………………………………...........
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………..
II 2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………........
3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………………
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm………………………………………………...
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm………………………………….........
2. Thực trạng cụ thể ở trường THPT Quảng Xương 3…………………………….
3. Các giải pháp giải quyết vấn đề…………………………………………………
3.1. Phương pháp thảo luận nhóm…………………………………………………
3.2. Phương pháp nhập vai vào nhân vật……………………………………..........
3.3. Phương pháp cho học sinh đong kịch …………………………………………
3.4. Phương pháp cho HS xem phim, nhạc, hình ảnh có liên quan đến tác phẩm..
3.5. Phương pháp sử dụng lược đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn…………
3.5.1. Khái niệm……………………………………………………………………
3.5.2. Đặc trưng…………………………………………………………………....
3.5.3. Quy trình thiết kế một lược đồ tư duy………………………………….........
3.5.4. Tổ chức vẽ lược đồ tư duy trên lớp…………………………………………
3.5.6. Ưu điểm của lược đồ tư duy…………………………………………………
3.5.7. Một số ví dụ về lược đồ tư duy mà tôi đã áp dụng đối với HS……………..
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân và đồng nghiệp..
III. Kết luận, kiến nghị……………………………………………………………..
1. Kết luận……………………………………………………………………........
2. Kiến nghị…………………………………………………………………………
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………….....
I. MỞ ĐẦU:

Trang
1
1

Hơn thế nữa, chương trình học môn ngữ văn rất nặng, có một số bài chưa
phù hợp với tâm lý học sinh, còn khô cứng. Sự cứng nhắc trong thi cử môn ngữ


văn còn hạn chế ở một số nghành nghề, một số trường đại học, cao đẳng… Giáo
viên còn nhiều áp lực, mất nhiều thời gian vào các bước lên lớp. Giáo viên chưa
tạo được hứng thú cho học sinh.
Vậy làm thế nào để học sinh gần gũi với môn ngữ văn hơn? Trước hết
phải cho các em hiểu ý nghĩa của môn văn đối với cuộc sống của mỗi người. Sự
cần thiết phải học văn bởi “Văn học là nhân học” (M. Grỏoki )… Song tất cả đó
chỉ là lý thuyết. Tôi thiết nghĩ con đường ngắn nhất để môn văn đến được với
các em học sinh trước hết phải cho các em thấy được học văn rất dễ nhớ, dễ
thuộc… Các bài học của môn văn dễ dàng đi vào trí nhớ của các em như ăn một
bát cơm, uống một cốc nước, nó trở nên gần gũi như con đường đến trường.
Vậy làm thế nào để có được điều đó? Không gì hơn giáo viên phải tìm ra
phương pháp dạy mới mẻ, phù hợp với các em để vừa đạt được hiệu quả học tập
vừa tạo được hứng thú cho học sinh.
Trong những năm gần đây, bộ giáo dục và đào tạo đã và đang triển khai
đổi mới phương pháp dạy học tích cực, nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo
của học sinh, rèn luyện kỹ năng tự học và vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Do
vậy đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp dạy học phong phú, đa dạng
để đào tạo học sinh phát triển một cách toàn diện.
Từ những lý do trên, người viết bài này mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh
nghiệm: “Tạo hứng thú học tập và phát huy khả năng sáng tạo cho học sinh
trong một số bài dạy bằng sơ đồ tư duy ở môn ngữ văn”. Với hy vọng bằng
những kinh nghiệm thực tế của mình tôi sẽ đem đến cho học sinh những giờ học
thực sự thoải mái và hiệu quả nhằm bồi dưỡng ở các em lòng say mê học tập,
khả năng sáng tạo và tình yêu đối với môn ngữ văn.
2. Mục đích nghiên cứu.
Với hình thức thi cử và nghề nghiệp như hiện nay, tôi nhận thấy các em


trình bày những suy nghĩ của mình. Sau mỗi tiết học các em đều có thể nắm
được kiến thức cơ bản ngay trên lớp. Khả năng phát triển trí tưởng tượng, trau
dồi ngôn ngữ cũng được đánh giá cao khi sử dụng những phương pháp dạy học
này. Đây là điều rất cần thiết đối với việc học văn.
Một điều cũng rất đáng quan tâm đó là học sinh lười viết văn vì phần lớn
các môn chỉ thi bằng hình thức trắc nghiệm. Để trang bị kiến thức cho các em
giúp các em có hứng thú học tập là điều không phải giáo viên nào cũng có thể
làm được. Phải thực sự đặt mình vào vị trí của các em, phải thực sự yêu quí các
em mới có thể làm được điều đó. Xuất phát từ tình cảm trên, xuất phát từ thực tế
giảng dạy nhiều năm tôi đã rút ra được những kinh nghiệm, những phương pháp
dạy phù hợp để từ đó tạo hứng thú cho các em học tập và áp dụng kiến thức vào
thực tế cuộc sống.
2. Thực trạng cụ thể ở trường THPT Quảng Xương 3
- Học sinh phần lớn là đăng ký khối A nên các em không chú tâm với
môn ngữ văn.
- Những học sinh đăng ký khối C,D thì nhiều học sinh chỉ có lực học
trung bình.
- Những học sinh học chỉ mong lấy cái bằng tốt nghiệp thì không hứng
thú với môn ngữ văn. Vì vậy để các em hứng thú với các môn học nói chung và
môn ngữ văn nói riêng không phải một sớm một chiều, đó là cả một quá trình.
- Hầu hết các tiết học giáo viên đều phải đánh vật với học sinh. Các em
không chú ý học, ồn, không chịu xây dựng bài.
- Sau nhiều năm thử nghiệm những phương pháp dạy học dưới đây tôi
nhận thấy các em đã dần dần thích học hơn. Trong giờ học các em đã có ý thức
xây dựng bài, đã chuẩn bị bài cũ trước khi đến lớp.
3. Các giải pháp giải quyết vấn đề.


Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng một số phương pháp giảng dạy

3.5 Phương pháp sử dụng lược đồ tư duy trong giảng dạy môn văn. (Đây
là phương pháp giảng dạy chính mà trong SKKN này tôi muốn trình bày )
3.5.1 Khái niệm:
Lược đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy của con người và là kỹ
thuật học hiệu quả dạng bộ não. Là phương pháp học chú trọng đến cơ chế ghi
nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng hệ thống hóa một
chủ đề hay một mạch kiến thức….Do đó, việc lập lược đồ tư duy phát huy tối đa
khả năng sáng tạo của mỗi học sinh.
3.5.2 Đặc trưng:
Lược đồ tư duy vẽ ra đối tượng liên quan xuất phát từ một chủ đề như quả
tim và sự kết nối các mạch máu xung quanh nó. Là dạng công cụ đồ họa tốt
nhất.
+ Bắt đầu từ hình ảnh trung tâm hay một cụm từ, nhãn tự, khái quát chủ
đề.
+ Sử dụng màu sắc kích thích trí não.
+ Gắn liền vơí hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp một, là các nhánh cấp
hai mang ý phụ làm rõ các ý chính.
+ Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để làm rõ chủ đề, nhánh càng xa trung
tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, lược đồ tư duy là một bức tranh tổng
thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một
nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó.


(Hình ảnh minh hoạ lược đồ tư duy)
3.5.3 Quy trình thiết kế một lược đồ tư duy:
Để thiết kế một lược đồ tư duy chúng ta cần thực hiện theo các bước sau
đây:
Một là: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (Có thể vẽ
hình ảnh minh họa cho chủ đề)
Hai là: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ

luận văn học. Có những lược đồ tư duy do học sinh vẽ và xây dựng, tôi là người


trực tiếp chỉnh sửa như: Lược đồ tư duy bài “Tóm tắt văn bản thuyết minh”
Sách giáo khoa lớp 10 tập 2, do em Nguyễn Thơm lớp 10 D4 thể hiện.


Bài “Tóm tắt văn bản thuyết minh” Sách giáo khoa lớp 10 - Tập 2


Bài “Nhàn” - Nguyễn Bỉnh Khiêm (Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 - Tập 1)


Bài “Phong cách ngôn ngữ nhệ thuật” Sách giáo khoa lớp 10 - Tập 2


Bài “Quá trình văn học và phong cách văn học” - Sách giáo khoa lớp 12, Tập 1.


Với những ưu điểm của các phương pháp trên kích thích quá trình tìm tòi
kiến thức của học sinh. Trong đó việc sử dụng lược đồ tư duy trong quá trình
dạy học giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất
cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát
huy được năng lực riêng của từng em về trí tuệ, hệ thống hóa kiến thức, khả
năng hội họa và sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Việc vận dụng đa dạng các phương pháp trong dạy học môn văn không
chỉ tạo hứng thú cho học sinh mà còn hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc,
hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa
học. Sử dụng lược đồ tư duy cùng với các phương pháp dạy học tích cực như
vấn đáp, gợi mở, thuyết trình… Có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương


Sĩ số
Giỏi
0%
10%

48
48

Khá
2,6%
40%

Kết quả
Trung bình
50%
50%

Yếu
Kém
30,4% 7%
0%
0%

Theo dõi ở lớp 10D4 trong năm học này 2015 – 2016, từ đầu năm kiểm
tra chất lượng đầu vào đến kết thúc năm học kết quả đạt được như sau:
Năm học

Lớp


35%

Yếu
0%
0%
0%

Kém
0%
0%
0%

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận:
Nhìn vào kết quả thực tế ở các năm học trên, đặc biệt kết quả đầu vào và sau
một năm áp dụng SKKN tôi nhận thấy đã có sự thay đổi rõ rệt theo chiều hướng
tích cực. Số học sinh khá, giỏi đã tăng lên. Học sinh kém dần dần không còn. Đây
là kết quả mà tôi và các đồng nghiệp thấy rất vui và phấn khởi.


Các phương pháp dạy học mà tôi đã đề cập ở trên phù hợp để áp dụng cho
học sinh THPT ở hai khối lớp: 10,12. Phương pháp này có thể áp dụng cho các
phân môn đọc văn, Tiếng Việt, làm văn và cả lí luận văn học.
Tôi sẽ tiếp tục áp dụng phương pháp dạy học này vào những năm học tiếp
theo.
Như vậy, việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực sẽ hình thành cho
học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề
một cách hệ thống, khoa học. Vì vậy việc tăng cường đổi mới phương pháp dạy học
nói chung, trong đó có dạy học ngữ văn là việc làm rất cần thiết, góp phần đáp ứng
phong trào”Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ Giáo Dục



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status