Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của giảng viên trong hệ thống giáo dục đại học tại một số quốc gia trên thế giới - Pdf 58

TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 29/2019

175

CÁC LĨNH VỰC TỰ CHỦ NGHỀ NGHIỆP
CỦA GIẢNG VIÊN TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC
ĐẠI HỌC TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
Bùi Lê Thùy Trang
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Tóm tắt: Cùng với xu hướng tự chủ đại học, tự chủ nghề nghiệp của giảng viên được coi
là một yêu cầu tất yếu giúp đảm bảo chất lượng giảng dạy, nghiên cứu…, giúp các
trường đại học vươn tới mô hình quản trị tiên tiến và góp phần thúc đẩy và hỗ trợ tự chủ
của người học - một trong những mục tiêu trọng yếu của giáo dục. Bài viết khái quát vai
trò, các lĩnh vực và các mức độ tự chủ nghề nghiệp của giảng viên; phân tích một số lĩnh
vực tự chủ nghề nghiệp của GV tại một số quốc gia trên thế giới và rút ra bài học khi áp
dụng mô hình này tại Việt Nam.
Từ khóa: Tự chủ đại học, tự chủ nghề nghiệp của giảng viên.
Nhận bài ngày 24.1.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 20.2.2019
Liên hệ tác giả: Bùi Lê Thùy Trang; Email:

1. MỞ ĐẦU
Tự chủ nghề nghiệp của giảng viên (GV) là sự tự do, độc lập, tự quyết định ở mức độ
cho phép trong việc lập kế hoạch, lựa chọn và thực hiện hoạt động giảng dạy, nghiên cứu,
tham gia hoạt động quản trị, tương tác xã hội trong cả phạm vi lớp học và phạm vi nhà
trường. Tự chủ nghề nghiệp của GV đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của giáo
dục đại học.
Thứ nhất, tự chủ góp phần tạo động lực làm việc do thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng
của GV đại học. Chính việc thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng đã khiến cho tự chủ nghề
nghiệp trở thành yếu tố tạo nên sự hài lòng trong công việc. Tự chủ nhằm thỏa mãn nhu
cầu tôn trọng của GV được thể hiện ở hai khía cạnh: (i) khía cạnh cá nhân: giúp GV cảm
thấy mình tự tin, tự trọng, tự tôn và (ii) khía cạnh mối quan hệ cá nhân - tổ chức: giúp GV

2.1. Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV
Các lĩnh vực tự chủ của GV được mô hình hóa trong Sơ đồ 1:

Sơ đồ 1: Các lĩnh vực và nội dung tự chủ của giảng viên


TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 29/2019

177

Từ sơ đồ trên có thể thấy, các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV biểu hiện ở các lĩnh
vực sau:
Lĩnh vực 1: Tự chủ trong hoạt động dạy học và đánh giá người học được chỉ dẫn bởi
các chỉ báo: lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học, đánh giá quá trình, đánh giá kết quả
học tập của SV, xây dựng nội quy dành cho SV, xây dựng môi trường vật chất lớp học.
Lĩnh vực 2: Tự chủ trong lĩnh vực phát triển chương trình, bao gồm các chỉ báo: xây
dựng, điều chỉnh chương trình khung, chương trình bắt buộc và lựa chọn, những chương
trình được chuyển giao từ nước ngoài …
Lĩnh vực 3: Tự chủ trong hoạt động nghiên cứu, bao gồm các chỉ báo: xây dựng và
thực hiện mục đích nghiên cứu, lựa chọn đối tượng và nội dung nghiên cứu, lựa chọn
hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu, công bố kết quả nghiên cứu, phân bổ tài chính
cho hoạt động nghiên cứu.
Lĩnh vực 4: Tự chủ trong lĩnh vực quản trị nhà trường, nhấn mạnh những chỉ báo bao
gồm: xây dựng triết lý, quan điểm giáo dục của nhà trường, xây dựng tầm nhìn, chiến lược
và mục tiêu của nhà trường, phân bổ tài chính, xây dựng quy chế chuyên môn, quy chế và
kế hoạch đào tạo của nhà trường.
Lĩnh vực 5: Tự chủ trong hoạt động bồi dưỡng và phát triển chuyên môn cho đội ngũ
bao gồm các chỉ báo về tham gia xây dựng tiêu chí đánh giá GV, tiêu chí tuyển dụng GV
mới, quyền quyết định nội dung, phương pháp và chủ thể tiến hành hoạt động bồi dưỡng
chuyên môn.


2.3. Một số lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV nước ngoài
2.3.1. Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV đại học ở Mỹ
Trường đại học ở Mỹ có quyền tự chủ nội bộ tương đối mạnh và quyền tự do học thuật
khá cao, quyền tự chủ truyền thống và sự kiểm soát của đội ngũ GV đối với nhiều khía
cạnh của quản lý trường học cũng ở mức độ cao.
Các GV đại học được sử dụng quyền tự chủ đáng kể đối với các điều kiện làm việc cơ
bản của họ. Các giáo sư vẫn giữ được quyền tự chủ đối với việc sử dụng thời gian của họ
ngoài phạm vi lớp học như: tự chọn các đề tài nghiên cứu của riêng mình và đa số tự quyết
định họ sẽ xuất bản cái gì và bao nhiêu, mặc dù việc nghiên cứu ở một số lĩnh vực và về
một số đề tài đòi hỏi phải có kinh phí dồi dào và vì thế phải phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ
ngoài trường. Có những mặt khác biệt tùy theo loại trường, đội ngũ GV ở các trường cao
đẳng cộng đồng và các trường định hướng giảng dạy không chọn lọc chịu nhiều hạn chế về
quyền tự chủ hơn các GV ở trường đại học nghiên cứu có uy tín. Đội ngũ GV không phải
cơ hữu hay GV giảng dạy bán thời gian cũng có ít quyền tự chủ hơn nhiều so với các đồng
nghiệp cơ hữu, không thời hạn. Trong lĩnh vực quản lý nhà trường, sự hình thành các tổ
chức khoa học đã tác động đến lương bổng, uy tín, điều kiện làm việc và mang lại cho đội
ngũ GV đại học nhiều quyền lực hơn trong việc quản lý nhà trường.
Mặc dù có những nhân tố làm giảm sút quyền tự chủ nghề nghiệp của GV do các yếu
tố tài chính chi phối khiến một số trường đại học phải phụ thuộc vào nguồn tài trợ từ bên
ngoài, nhưng các điều kiện làm việc cơ bản của GV đại học Mỹ vẫn tương đối ổn định.
Quyền tự do học thuật và hệ thống bổ nhiệm không thời hạn (với tư cách là một biện pháp
nhằm bảo vệ quyền tự do học thuật của GV) phần lớn vẫn được giữ nguyên, nhưng các yêu
cầu về trách nhiệm xã hội ngày càng nhiều hơn. GV đại học vẫn duy trì được sự kiểm soát
cơ bản đối với chương trình đào tạo và hầu hết các trường đại học vẫn dựa vào các khoa là
nơi vẫn chịu ảnh hưởng rất mạnh của đội ngũ GV. Sự quản lý cấp trường của GV đại học,
mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của các nhà quản lý, vẫn giữ nguyên không thay đổi. [7].


TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 29/2019

môi trường giáo dục, tham gia vào các dự án quốc tế; hướng dẫn việc học, nghiên cứu khoa
học, tài trợ và rất nhiều các hoạt động khác. Một mặt, việc tăng cường quyền tự chủ nghề
nghiệp cho GV bao gồm việc tăng quyền, hệ quả là phát triển năng lực tự chủ nghề nghiệp
cho họ; mặt khác, nhiệm vụ quản trị và những thủ tục cần thiết để chuẩn bị soạn giảng,
đánh giá SV dường như làm gia tăng khối lượng công việc của GV, đặt họ dưới áp lực và
căng thẳng tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dạy học và thiếu tạo động lực
cho người học. Tình huống trở nên phức tạp bởi sự thay đổi trong nhận thức của cộng đồng


180

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

về giáo dục đại học. Các trường đại học ngày nay được quản trị theo phương thức quản trị
kinh doanh, ở đó mọi hoạt động của GV được đánh giá dựa trên chuẩn. Theo cách hiểu
này, SV là khách hàng mà giáo dục phải đáp ứng. Điều này không chỉ chống lại quan điểm
truyền thống được chấp nhận lâu nay là trường đại học là tháp ngà khoa học mà còn đi
ngược lại những điều luật về tự chủ và dân chủ trong Tiêu chuẩn giáo dục liên bang, Luật
Liên bang Nga cũng như luật quốc tế và các phát kiến về giáo dục. Tự chủ được tất cả các
thành viên của trường đại học nhận thức có thể ngăn ngừa những rủi ro này, đặc biệt là
thông qua việc tạo ra biến chuyển trong vai trò của SV và GV từ những khía cạnh hành
động đến khía cạnh nhận thức. Điều này nghĩa là tự chủ nghề nghiệp của GV là yếu tố
tiềm năng trong giáo dục và cần trở thành yếu tố căn bản của phương thức văn hóa giáo
dục mới.

2.3.3. Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV đại học ở Trung Quốc
Từ năm 2007, khi các trường đại học Trung Quốc bắt đầu tiến hành phân tích những
thách thức cấp quốc gia và toàn cầu trong tương lai, GV được tham gia thảo luận mở giữa
các GV và lãnh đạo để xác định một số ưu tiên nổi bật cần chú ý trong giáo dục đại học,
bao gồm: lôi kéo những đầu óc sáng tạo, ươm tạo những ý tưởng đổi mới, và liên kết các

tiếp các nguồn vốn.
- Một hệ thống bổ nhiệm GV chính thức hợp nhất. Việc xây dựng đội ngũ GV chất
lượng quốc tế mới đã tạo ra sự phân hóa trong trường: nhóm các học giả đi theo những tiêu
chuẩn và chế độ đãi ngộ phương Tây và nhóm các GV đương nhiệm đi theo ba con đường
nêu trên. Năm 2013, sáu khoa/ban thí điểm đã bắt đầu hợp nhất hai hệ thống này thành một
chế độ bổ nhiệm GV chính thức duy nhất giống như các trường đại học ở Bắc Mỹ. Một số
kết quả đáng khích lệ đã có thể nhìn thấy được ở các môn vật lý, toán học, kỹ thuật cơ khí,
kỹ thuật sinh y, luật và quản lý.

2.4. Một vài đề xuất áp dụng mô hình tự chủ nghề nghiệp cho GV đại học ở
Việt Nam
Để đạt được những mục tiêu trên, tác giả đưa ra một số khuyến nghị trong phát triển tự
chủ nghề nghiệp cho GV trong bối cảnh nền giáo dục đại học Việt Nam như sau:
Thứ nhất, bối cảnh giáo dục đại học cần chung cấp những thách thức và cơ hội nghề
nghiệp để GV thực hiện ra quyết định (ví dụ: tự do lựa chọn phương thức phát triển hồ sơ
GV một cách linh hoạt, phát triển phương pháp giảng dạy và chương trình giảng dạy mà
GV cho là phù hợp) cũng như cung cấp cho GV cơ hội để trao quyền và tự phát triển cá
nhân, phát triển nghề nghiệp.
Hiện nay, vẫn còn tồn tại những rào cản về quy định tổ chức lớp học phần đại học
cũng như quy định về kiểm tra, thi học phần và đánh giá kết quả học tập của SV, ví dụ đối
với các học phần chỉ có lý thuyết hoặc có cả lý thuyết và thực hành: Tùy theo tính chất của
học phần, điểm tổng hợp đánh giá học phần được tính căn cứ vào một phần hoặc tất cả các
điểm đánh giá bộ phận, bao gồm:
- Một điểm đánh giá của giảng viên đối với SV, để đánh giá nhận thức, thái độ tham
gia thảo luận và tính chuyên cần. Điểm này có trọng số 10%.
- Từ một đến hai điểm kiểm tra học phần, điểm đánh giá phần thực hành hoặc điểm
tiểu luận. Điểm này có trọng số 20%, hoặc 30% hoặc 40%. Mỗi điểm kiểm tra giữa học
phần, điểm đánh giá phần thực hành không chiếm quá 30% điểm học phần.
- Điểm thi kết thúc học phần, trong đó điểm thi kết thúc học phần là bắt buộc cho mọi
học phần và có trọng số 50% hoặc 60% hoặc 70%.

môn trước khi bắt đầu học phần sao cho học liệu phải hấp dẫn, thực tiễn và thu hút được sự
chú ý của SV. Đặc biệt với các hoạt động trao đổi, tự học tự nghiên cứu.
Bên cạnh đó, việc xây dựng kịch bản dạy học, tiến trình, phương pháp dạy, xác định
phương pháp đánh giá để nắm được tiến trình tiến bộ của SV cũng là một sự trăn trở không
nhỏ đối với GV và bộ môn phụ trách. Bởi vậy, để tự chủ có hiệu quả, người dạy cần phải
đầu tư công sức và thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực
hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các
hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của SV. Do đó, GV xứng đáng được công
nhận thành tích khi hoàn thành tốt việc tự chủ trong các học phần mình phụ trách.
Thứ tư, hệ thống điều hành quản trị của nhà trường cần khuyến khích GV tham gia các
dự án giáo dục. Điều này khiến GV thoát khỏi sự cô lập, cá nhân chủ nghĩa, tự mãn và tạo
cơ hội để hợp tác, cùng học hỏi, cùng đàm phán và chia sẻ.


TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 29/2019

183

Những điều kiện bên trong và bên ngoài này được phối hợp với nhau sẽ khuyến khích
sự phát triển của phương thức quản trị giáo dục theo hướng tự chủ (autonomy - oriented
type of educational control).

3. KẾT LUẬN
Từ kinh nghiệm quốc tế về phát triển tự chủ nghề nghiệp cho GV ở các quốc gia vừa
là những đại diện dẫn đầu trong tự chủ đại học (Mỹ), vừa cùng chung điều kiện về chuyển
đổi mô hình xã hội từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường (Nga), vừa cùng
chung bối cảnh văn hóa khu vực châu Á (Trung Quốc), có thể thấy tự chủ nghề nghiệp là
yếu tố tiềm năng trong giáo dục. Các cơ sở giáo dục đại học cần đảm bảo tự chủ nghề
nghiệp cho GV không chỉ đối với hoạt động giảng dạy, tính kiểm soát cơ bản đối với
chương trình đào tạo, nghiên cứu mà còn ở hoạt động điều phối tác động đến môi trường


The information network on education in Europe, (2008), Levels of Autonomy and
Responsibilities of Teachers in Europe, - Belgium: Eurydice.

6.

Glass, S.R. (1997), “Markets & Myths: Autonomy in Public and Private Schools”, - Education
Policy Analysis Archives. Vol.5, No.1.

7.

Lâm Quang Thiệp, Phillip G.Altbach, D.Bruch Jonhstone (2006), Giáo dục đại học Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục.

8.

André du Toit (2007), Autonomy as a social compact, The Council of Higher Education South
Africa, ISBN 1-919856-58.


184

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

THE ASPECTS OF PROFESSIONAL AUTONOMY OF LECTURERS
IN THE HIGHER EDUCATION SYSTEM IN SOME COUNTRIES
AROUND THE WORLD
Abstract: Along with the trend of university autonomy, professional autonomy of lecturers
is considered an indispensable requirement to ensure the quality of teaching and
research of teachers, help universities reach the first management model and contribute
to promote and support learners' autonomy - one of the key goals of education. The paper


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status