Hoàn thiện tổ chức và quản lý kênh phân phối sản phẩm của Công ty TRIUMPH International (Vietnam) Ltd trên thị trường nội địa - Pdf 76

LỜI NÓI ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trong điều kiện hiên nay, do sự phát triển không ngừng của cách
mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đòi hỏi phải tăng cường chức năng
kinh tế, xã hội của nhà nước.Để thực hiện các chức năng đó, Nhà nước cần
phải sử dụng các công cụ khác nhau để tác động đến nền kinh tế, nhằm
thoả mãn các nhu cầu xã hội.
Việc tăng cường vai trò kinh tế, xã hội của nhà Nước dẫn đến tốc độ
chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên, điều đó tất yếu đòi hỏi Nhà nước
phải mở rộng quỹ tài chính của mình. Quỹ tài chính của Nhà nước được
hình thành nên từ các nguồn thu.Trong đó Thuế vừa là nguồn thu chủ yếu
của NSNN, vừa là một công cụ đắc lực để quản lí nền kinh tế. Đặc biệt là
thuế GTGT.
Thuế GTGT được áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999. Sau hơn
hai năm thực hiện, ngoài những ưu điểm giúp cho việc kiểm soát nguồn thu
tương đối chặt chẽ và thuận lợi như : Đơn giản, dễ hiểu, có tính chất liên
hoàn, tăng cường công tác hạch toán, kế toán tại doanh nghiệp. . . Luật thuế
GTGT và quy trình quản lí thuế GTGT cũng bộc lộ những nhược điểm, ảnh
hưởng tới công tác kiểm soát nguồn thu, do vậy ảnh hưởng trực tiếp tới kế
hoạch thu ngân sách của Nhà nước. Kiểm soát tốt được nguồn thu thuế
GTGT cũng đồng nghĩa với việc tăng thu cho NSNN.
Xuất phát từ vai trò quan trọng đó nên việc “ Tăng cường kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội” là đề
tài được chọn trong luận án thạc sĩ của tôi.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Luận án nghiên cứu thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT đối
với các Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội. Hệ thống hoá những
1
quan điểm mới về kiểm soát phù hợp với vai trò quản lí của Nhà nứớc,
trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT- một nguồn thu quan trọng của Nhà nước.

quản lý của Nhà nước. Do vậy để hiểu được khái niệm về kiểm soát nguồn
thu Thuế GTGT, chúng ta phải xuất phát từ quản lý nói chung và quá trình
quản lý của Nhà nước nói riêng.
1.1.1 - Những vấn đề chung về quản lý.
Một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức
thực hiện các mục tiêu đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm
đạt hiệu quả cao nhất.
Quá trình quản lý bao gồm 4 giai đoạn cơ bản:
Thứ nhất: trên cơ sở dự báo về các nguồn lực hiện có và các nguồn
lực tiềm năng, người quản lý xác định các mục tiêu của quản lý. Đây là giai
đoạn định hướng.
Thứ hai: Xây dựng các chương trình, các kế hoạch để đạt được mục
tiêu của quản lý. Ở giai đoạn này, người quản lý phải đưa ra các quyết định
cụ thể để tổ chức thực hiện với những công cụ, các biện pháp, các chính
sách.v...v...
Thứ ba: Giai đoạn tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn này, cần kết
hợp các nguồn lực theo một phương án tối ưu nhất, sử dụng các quyết định
quản lý một cách hiệu quả nhất nhằm đạt được kết quả tối ưu như mục tiêu
đã đặt ra.
Thứ tư: là giai đoạn đánh giá kết quả hoạt động. Giai đoạn này rất
quan trọng vì các thông tin thu được sẽ cho biết các kết quả đạt được có
3
thoả mãn các mục tiêu của người quản lý hay không, từ đó người quản lý
có thể có những điều chỉnh cần thiết.
Trong suốt quá trình quản lý, kiểm tra luôn gắn kết với các giai đoạn
của quản lý. Ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo về nguồn lực và
mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và
mục tiêu, xây dựng các chương trình, kế hoạch...Sau khi các chương trình,
kế hoạch đã được kiểm tra có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức
thực hiện. Ở giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo

Như vậy, kiểm tra kiểm soát gắn liền với hoạt động quản lý. Ở đâu
có quản lý thì ở đó có kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra, kiểm soát không tự
nhiên tồn tại mà nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý và phục vụ
quản lý. Kiểm tra kiểm soát là cầu nối giữa thực tế sinh động và nhận thức
chủ quan của con người trong quá trình quản lý.
Về phân cấp quản lý, có rất nhiều mô hình khác nhau song chung
nhất thường là phân thành quản lý vĩ mô (của Nhà nước ) và quản lý vi mô
(của các đơn vị cơ sở). Ngoài ra, trong nhiều trường hợp giữa hai cấp quản
lý cơ bản nói trên còn có cấp quản lý trung gian vừa chịu sự quản lý vĩ mô
của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý của các đơn vị cơ sở.
Đối với quản lý vi mô, để bảo đảm hiệu quả hoạt động, tất yếu mỗi
đơn vị cơ sở đều tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu :
rà soát các tiềm lực, xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối
chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp, soát xét lại các thông tin thực
hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu năng của mọi
nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động. Công việc này
là kiểm soát nội bộ hay còn gọi là nội kiểm.
5
Trong khi đó, với cương vị quản lý vĩ mô, Nhà nước cũng thực hiện
chức năng kiểm tra của mình. Trong nền kinh tế, Nhà nước có vai trò bảo
đảm một môi trường kinh doanh ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh hơn nữa,
Nhà nước còn giữ vai trò định hướng sự phát triển của nền kinh tế thông
qua việc điều tiết kinh tế vĩ mô. Với những vai trò đó, đối tượng của quản
lý Nhà nước là rất rộng lớn, từ các doanh nghiệp cho tới những lĩnh vực ,
những ngành nghề khác nhau và trên nguyên tắc, tất cả các hoạt động kinh
tế đều thuộc đối tượng quản lý của Nhà nước. Với đối tượng quản lý rất
rộng, việc quản lý của Nhà nước đòi hỏi phải bám sát thực tế kinh doanh
của doanh nghiệp, nhưng đồng thời phải bảo đảm đúng định hướng, bảo
đảm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước.

xuất, thương mại, tài chính - tiền tệ , bảo đảm một môi trường kinh doanh
ổn định và thực hiện huy động đủ nguồn thu NSNN. Đối tượng quản lý của
quản lý Nhà nước là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, các yếu tố của môi trường
kinh doanh, các giá trị văn hoá, môi trường xã hội. Còn đối tượng quản lý
của doanh nghiệp lại là những vấn đề chi phí, thu nhập, cơ cấu các nguồn
vốn sử dụng, quy trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ..v.v... Do vậy, quá trình
kiểm tra kiểm soát đối với doanh nghiệp thì ngoài việc kiểm tra trong nội
bộ doanh nghiệp còn phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát này nhằm bảo đảm
các quyết định quản lý kinh tế của Nhà nước, trong đó có chính sách huy
động nguồn thu NSNN được thực hiện một cách có hiệu quả.
Trên giác độ tài chính, cả kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp và
kiểm soát của Nhà nước đều hướng tới một đối tượng chung là hoạt động
tài chính của doanh nghiệp.
1.1.3 - Kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
7
Phạm vi quản lý bao gồm tất cả các lĩnh vực chức năng khác nhau.
Tùy theo tính chất nghiệp vụ, sự chuyên môn hoá và sự phân quyền mà các
bộ phận chức năng có thể được thiết lập. Quá trình quản lý trong mỗi lĩnh
vực đều phải tuân thủ theo các bước như đã nêu ở trên nhưng phải tập trung
vào việc thực hiện chức năng đã định một cách hiệu quả nhất. Để thực hiện
mục tiêu này, cần phải thiết lập hệ thống kiểm soát trên hai khu vực, đó là
kiểm soát quản lý và kiểm soát kế toán.
Theo các chuẩn mực đã hệ thống hoá của Hội đồng kế toán viên
công chứng Mỹ (AICPA), phần thực hành kiểm toán (32009) thì :
Kiểm soát quản lý (trong doanh nghiệp được cụ thể hoá là kiểm soát
quản trị - Administrative) bao gồm (nhưng không hạn chế) kế hoạch tổ
chức và các trình tự, hồ sơ cần cho quá trình ra quyết định để cho phép tiến
hành các nghiệp vụ. Kiểm soát quản lý gắn liền với trách nhiệm thực hiện
các mục tiêu của tổ chức và là điểm xuất phát để thiết lập kiểm soát kế
toán.

minh một cách chính xác thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Từ những lý luận trên, có thể cụ thể hoá đối tượng của kiểm soát kế
toán trong hoạt động tài chính doanh nghiệp trên những vấn đề sau :
+ Thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Đối với mỗi doanh nghiệp, thực trạng hoạt động tài chính bao gồm 2
phần rõ rệt: một phần được phản ánh trong các tài liệu kế toán và phần còn
lại chưa được phản ánh trong tài liệu kế toán. Đối với phần thực trạng được
phản ánh trong các tài liệu kế toán, việc kiểm soát đã có đầy đủ bằng
chứng, đó là các chứng từ kế toán do doanh nghiệp lập ra trên cơ sở các
nghiệp vụ phát sinh và các quy định của hệ thống Luật pháp về kế toán.
Tuy vậy, đây chỉ là phần nổi của các hoạt động tài chính. Hoạt động kiểm
9
soát còn quan tâm đến phần thực trạng hoạt động tài chính chưa được phản
ánh trong tài liệu kế toán. Đó là khi các chứng từ kế toán không đủ độ tin
cậy mà trên thực tế không phát sinh các nghiệp vụ kinh tế, hoặc các nghiệp
vụ kinh tế chưa được phản ánh đầy đủ trên các chứng từ.
+Kiểm soát về tài liệu kế toán.
Thực trạng hoạt động tài chính là đối tượng chung của kiểm soát.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi các nghiệp vụ kế toán và tài
chính phát triển đến trình độ cao và hệ thống Luật pháp ngày càng trở nên
chặt chẽ thì yêu cầu chung đối với quản lý là tất cả các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh phải được phản ánh đầy đủ trên các tài liệu kế toán. Một mặt đây
là sự lượng hoá các nghiệp vụ kinh tế, mặt khác tài liệu kế toán còn thể
hiện tính pháp lý của hoạt động kinh tế.
Đối với các tài liệu kế toán, việc kiểm soát phải thực hiện theo các
nội dung sau:
- Kiểm tra tính hiện thực của các thông tin kế toán. Tính hiện thực
của thông tin trên các tài liệu kế toán thể hiện sự phản ánh một cách trung
thực, đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.

- Phương pháp đối chiếu logic: Là phương pháp xem xét mức biến
động tương ứng về trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song
nó có thể có mức biến động khác nhau theo những chiều hướng khác nhau
(ví dụ giữa hàng tồn kho với tiền mặt, tiền gửi và các khoản phải thu).
Các phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ
- Phương pháp kiểm kê: Là phương pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài
sản. Phương pháp này giúp việc kiểm soát phát hiện sự sai lệch giữa thực
trạng tài sản và việc phản ánh trên các chứng từ kế toán.
11
- Phương pháp thực nghiệm: Là phương pháp diễn lại hoặc nghiên
cứu, phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có,
đã diễn ra và cần xác minh lại.
- Phương pháp điều tra: Đây là phương pháp xác định lại một tài
liệu, hoặc một thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luận trong
quá trình kiểm soát.
Tóm lại, kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp chính là thực hiện
việc kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính. Nó có vai trò rất quan trọng
trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp và của Nhà nước. Do có đối
tượng, có phương pháp cụ thể, kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính
đã đáp ứng được các nhu cầu của quản lý và là một chức năng quan trọng
của quản lý. Trong phạm vi của đề tài, tác giả sẽ đi sâu vào một hoạt động
kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, đó là kiểm
soát nguồn thu thuế GTGT.
1.2/ KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH
NGHIỆP.
1.2.1 - Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT.
Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế
đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT (gồm cả khoản

hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh
doanh phải ghi rõ giá bán chưa bao gồm thuế GTGT, thuế GTGT, tổng giá
thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi rõ giá
chưa có thuế GTGT và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ
bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ.
13
Thuế GTGT đầu vào là số thuế GTGT được ghi trên hoá đơn GTGT
khi mua hàng hoá, dịch vụ hoặc trên chứng từ nộp thuế GTGT của hàng
hoá, dịch vụ nhập khẩu.
Đối với quản lý Nhà nước, mục tiêu của việc áp dụng thuế GTGT là :
- Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá,
đẩy mạnh xuất khẩu. Thuế GTGT khắc phục được việc thu trùng lắp của
thuế doanh thu, thuế GTGT không thu trên vốn đầu tư, do đó khuyến khích
sản xuất kinh doanh và đầu tư. Đối với hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp
không phải nộp thuế GTGT, mặt khác lại được hoàn thuế GTGT đầu vào
nên có điều kiện hạ giá bán, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường
quốc tế.
- Bảo đảm động viên số thu quan trọng và tương đối ổn định cho
NSNN.
- Tăng cường công tác hạch toán kế toán và khuyến khích việc mua
bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ.
- Phù hợp với thông lệ quốc tế và đẩy nhanh tiến trình hội nhập với
các nước trong khu vực và trên thế giới
1.2.2 - Vai trò của kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT.
1.2.2.1- Vai trò của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT
Nguồn thu NSNN là nguồn tài chính nuôi sống sự hoạt động của bộ
máy Nhà nước. Hơn nữa nguồn thu NSNN còn quyết định mức chi NSNN,
do đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Từ đó có
thể thấy rằng việc quản lý Nhà nước phải đặt việc quản lý nguồn thu
NSNN, trong đó có nguồn thu thuế GTGT là một trong những mục tiêu

cách mạnh mẽ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tuy vậy sự can thiệp của Nhà nước chỉ thực sự có hiệu quả khi thực hiện
15
tốt kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT. Bởi ở góc độ điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, các mục tiêu của Nhà nước và lợi ích của từng doanh nghiệp không phải
bao giờ cũng thống nhất. Trong khi đó, Nhà nước với tư cách đại diện cho
ý chí toàn bộ xã hội luôn phải được đặt lên vị trí hàng đầu.
Thứ ba, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT tạo điều kiện hình thành
thói quen tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp, các cá nhân trong hoạt
động kinh tế - xã hội. Đối với các doanh nghiệp, chính sách thuế GTGT
của Nhà nước luôn là mối quan tâm sâu sắc nhất. Nền kinh tế thị trường có
thể phát huy mọi tiềm năng, giải phóng sức sản xuất nhưng cũng tạo ra
những tiêu cực như trốn, lậu thuế,... Kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT nếu
được thực hiện tốt sẽ buộc các doanh nghiệp, các cá nhân tuân thủ Luật
thuế, từ đó tạo ra thói quen tự giác chấp hành pháp luật của nhà nước trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cuối cùng, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT góp phần tạo ra một
môi trường kinh doanh ổn định, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong các
hoạt động kinh tế. Trên góc độ quản lý Nhà nước, tất cả các doanh nghiệp
phải bình đẳng và có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ việc nộp thuế và các
nguồn thu khác cho NSNN. Tuy nhiên thực tế các doanh nghiệp có thể thực
hiện rất khác nhau về nghĩa vụ đóng góp, có doanh nghiệp thực hiện
nghiêm chỉnh, song cũng có doanh nghiệp không thực hiện, hoặc thực hiện
không đầy đủ các nghĩa vụ nộp thuế. Điều đó dẫn tới sự cạnh tranh không
lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Trên nguyên tắc, Nhà nước có vai trò là
người trọng tài, không được thiên vị. Do vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế
GTGT khi được thực hiện đầy đủ tới mọi đối tượng nộp thuế sẽ tạo ra sự
công bằng bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Tóm lại, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là sự cần thiết khách quan
trong quản lý Nhà nước. Thực hiện kiểm soát được các nguồn thu Thuế

17
nghiệp . Do vậy, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bám sát vào các
quy định pháp luật và phải thực hiện đúng theo các quy định đó.
Thứ hai, phải tuân thủ quy trình quản lý thu thuế. Việc quản lý nguồn
thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp luôn được thực hiện theo quy trình cụ
thể. Kiểm soát là một chức năng của quản lý và tham gia vào tất cả các giai
đoạn của quản lý. Do đó kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT từ các doanh
nghiệp phải tuân thủ theo quy trình quản lý thu thuế.
Thứ ba, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bao quát hết tất cả các
nghiệp vụ phát sinh từ doanh nghiệp. Cụ thể là bao quát về số lượng các
Doanh nghiệp, các loại hoạt động, số Doanh nghiệp trong diện điều tiết của
thuế GTGT.
Thứ tư, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bảo đảm tính công
bằng cho các Doanh nghiệp. Chúng ta đều hiểu rằng việc kiểm soát về thuế
và các nguồn thu đối với Doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc của pháp luật.
Tuy vậy, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT không phải vì vậy mà kiểm soát
chặt chẽ Doanh nghiệp này, buông lỏng với Doanh nghiệp khác làm mất
tính công bằng của môi trường pháp luật.
1.2.3 - Nội dung của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh
nghiệp.
Việc kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thực chất là kiểm tra kế toán
trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp dựa trên quy trình quản lý thu
thuế. Do đó, trước hết chúng ta phải xuất phát từ quy trình quản lý thu thuế.
1.2.3.1. Quy trình quản lý nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh
nghiệp.
Quy trình quản lý thu thuế GTGT của Doanh nghiệp được tiến hành
theo những bước cơ bản sau:
* Đăng ký thuế và cấp mã số thuế
18
Hàng năm trên cơ sở khai đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp,

Trên cơ sở tờ khai đã lập ra, doanh nghiệp phải tự giức nộp thuế vào
Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng. Đối với khâu này, Cơ quan Thuế phối
hợp chặt chẽ, thường xuyên với Kho bạc, ngân hàng trong đó đặt ra quy
chế cho việc luân chuyển chứng từ, sau khi thu thuế giữa ba cơ quan này.
Để tăng hiệu lực của việc nộp thuế, Cơ quan Thuế cũng đưa ra biện pháp
khá mạnh mẽ về kinh tế và hành chính xử lý vi phạm trong trường hợp
doanh nghiệp chậm nộp tiền thuế. Chẳng hạn, doanh nghiệp phải chịu phạt
0,1% trên số tiền thuế chậm nộp trong 1 ngày.
* Hoàn thuế, quyết toán thuế
Việc hoàn thuế được thực hiện với thuế GTGT, doanh nghiệp lập hồ
sơ hoàn thuế theo quy định của Luật thuế gửi kèm với các hoá đơn chứng
từ đến Cơ quan Thuế. Cơ quan Thuế sẽ kiểm tra hồ sơ hoàn thuế và thực
hiện hoàn thuế cho doanh nghiệp.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc năm dương lịch, doanh
nghiệp phải lập và gửi quyết toán thuế cho Cơ quan Thuế. Quyết toán thuế
phải có đầy đủ nội dung về số thuế phải nộp, số thuế được hoàn trả, số
thuế đã nộp, số thuế được khấu trừ trong kỳ tới v.v....
Cơ quan Thuế kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của quyết toán thuế và
quyết định số thuế được khấu trừ, số thuế còn phải nộp cho doanh nghiệp.
* Thanh tra thuế
Thanh tra thuế là một trong những nội dung quan trọng của quá trình
kiểm soát nguồn thu thuế. Thanh tra thuế được tiến hành sau những bước
cơ bản trong quá trình thu thuế từ doanh nghiệp như đã trình bày ở trên.
Thực chất thanh tra thuế là kiểm tra việc nộp thuế của doanh nghiệp và
kèm theo việc xử lý vi phạm. Mục đích của thanh tra thuế là:
20
- Phát hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp vi
phạm Luật thuế như khai man thuế, nợ đọng thuế, chiếm dụng tiền thuế,
hạn chế mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước.
- Bảo đảm nâng cao ý thức chấp hành Luật thuế cho các doanh

máy ngành Thuế. Bên cạnh đó, do việc thu thuế được thực hiện trên nhiều
mặt hàng khác nhau, nhiều đối tượng khác nhau nên có liên quan đến nhiều
bộ, ngành khác nhau. Đó là các cơ quan sau:
- Bộ chủ quản của doanh nghiệp.
- Cơ quan Hải quan (liên quan đến việc thu thuế đối với hàng hoá
nhập khẩu)
- Kho bạc và ngân hàng: là những cơ quan trực tiếp thu nộp tiền thuế
của doanh nghiệp.
Để kiểm soát các nguồn thu thuế GTGT một cách chặt chẽ, các cơ
quan trên phải có sự phối hợp đồng bộ với ngành thuế theo chức năng
nhiệm vụ và quyền hạn của mình, tránh sự chồng chéo, gây khó khăn cho
các doanh nghiệp. Riêng đối với bộ máy ngành thuế phải được tổ chức gọn
nhẹ phải bao quát hết các đối tượng nộp thuế cũng như các nguồn thu khác
nhau từ doanh nghiệp. Để thực hiện được yêu cầu này, Nhà nước cần phải
có một hệ thống pháp luật về thuế có hiệu lực, dễ thực hiện và Nhà nước
cần đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, nhất là công nghệ thông tin.
Hiện nay ở nước ta, bộ máy quản lý thu thuế được tổ chức theo mô
hình sau:
- Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp quốc doanh.
- Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu nước
ngoài.
22
- Bộ phận tính thuế và thông báo thuế.
1.2.3.3- Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thông qua kiểm tra thực
trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT quan tâm đến doanh thu bán hàng
(liên quan đến thuế đầu ra) và chi phí mua hàng (liên quan đến thuế đầu
vào). Đối với doanh thu và chi phí, phải kiểm soát cả thực trạng hoạt động
tài chính và kiểm soát tài liêụ kế toán của doanh nghiệp. Đối với thực trạng

tra, kiểm soát việc tính thuế, kê khai của doanh nghiệp.
Các phương pháp kiểm soát nguồn thu thuế GTGT.
Với những đối tượng kiểm soát khá rộng, việc kiểm soát nguồn thu
thuế GTGT có nhiều phương pháp khác nhau, trong đó sử dụng cả hai
phương pháp là phương pháp kiểm soát trên chứng từ và phương pháp
kiểm soát ngoài chứng từ.
Đối với các phương pháp kiểm soát chứng từ, phương pháp cân đối
rất hay được sử dụng trong kiểm tra tính thuế và kê khai thuế của các
doanh nghiệp khi kiểm tra doanh thu, thu nhập và tính toán kết quả kinh
doanh. Phương pháp đối chiếu trực tiếp được sử dụng tương đối phổ biến
trong kiểm tra chứng từ để tính thuế, để đối chiếu giữa số cuối kỳ và số đầu
năm hoặc giữa các kỳ về các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, thuế phải nộp để
phát hiện sự biến động bất thường trong các chỉ tiêu đó. Phương pháp đối
chiếu logic cũng được sử dụng để phát hiện những mâu thuẫn trong việc
tính thuế, kê khai thuế của doanh nghiệp.
Bên cạnh phương pháp kiểm soát chứng từ, kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT còn sử dụng các phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ. Phương
pháp kiểm kê được sử dụng để phát hiện các chứng từ khống, hoặc doanh
thu bán hàng chưa lập chứng từ, hoá đơn đầy đủ. Do vậy, nó được sử dụng
24
trong việc kiểm soát kê khai thuế GTGT của doanh nghiệp. Ngoài ra,
phương pháp điều tra cũng được sử dụng khi có những biểu hiện bất
thường của các chỉ tiêu kê khai thuế của doanh nghiệp, hoặc khi có các đơn
từ tố cáo.
Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, chúng
ta có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau và trong quá trình kiểm
tra, kiểm soát cần vận dụng kết hợp giữa các phương pháp một cách linh
hoạt.
1.3/ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIỂM SOÁT THUẾ
GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status