Bài soạn Một số vấn đề liên quan đến văn tế trung đại Việt Nam - Pdf 81

Một số công trình nghiên cứu
liên quan đến văn tế trung đại
Việt Nam - điểm lại và định
hướng nghiên cứu
Nguyễn Duy Tuấn
I. Đặt vấn đề
Văn học trung đại là một bộ phận văn học vô cùng quan trọng trong nền văn học
nước ta và đã góp phần xây dựng nên bản lĩnh văn hoá của dân tộc Việt Nam
trong hệ thống văn hoá, văn học khu vực và thế giới. Đến với văn học trung đại
Việt Nam, chúng ta sẽ biết đến nhiều vấn đề thú vị và ý nghĩa như: Chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần chống giặc ngoại xâm, Chủ nghĩa nhân đạo, tình yêu thiên
nhiên và con người, tinh thần đấu tranh nữ quyền… Nhiều vấn đề trong số đó
đều là những vấn đề của văn học nói chung, đồng thời, thông qua đó, chúng ta
cũng rút ra được những đặc trưng của văn học Việt Nam đối với văn học các
nước. Vì nhận thức được vai trò to lớn ấy, giới nghiên cứu văn học trung đại Việt
Nam của Việt Nam và thế giới đã bỏ ra nhiều công sức tìm tòi, nghiên cứu thấu
đáo những vấn đề trên và đã đưa ra nhiều khám phá mới mẻ, bổ ích.

Bên cạnh những vấn đề riêng về nội dung của văn học, vấn đề chung về thể loại
cũng được một số người chú ý nghiên cứu. Tuy nhiên, so với vấn đề nội dung thì
vấn đề thể loại chưa được chú ý đúng mức. Đây phải là hai vấn đề được đặt
song song khi nghiên cứu văn học. Đặc biệt đối với văn tế, nội dung cũng là một
phương diện gắn liền với thể loại.
Chúng tôi nhận thấy, trong số các thể loại du nhập từ Trung Quốc, văn tế là thể
loại được “Việt hoá” nhiều nhất. Xét về cả nội dung, hình thức và phương tiện
bày tỏ tình cảm, văn tế trung đại Việt Nam (nhất là văn tế Nôm) dường như đã
hoàn toàn thoát khỏi sự ảnh hưởng của văn tế Trung Quốc. Có thể nói, đây là
thể loại văn học dành riêng cho những dân tộc giàu lòng nhân ái và trọng tình
trọng nghĩa như dân tộc Việt Nam. Bên cạnh nội dung thể hiện tình nghĩa đó,
văn tế Trung đại Việt Nam còn thể hiện nội dung lớn hơn, đó chính là lòng yêu
nước, tinh thần đấu tranh bất khuất kiên cường mà chúng tôi nghĩ không có

2/ Đặng Đức Siêu là tác giả 2 bài văn tế: Văn tế Phò mã Chưởng Hậu quân Võ
Tánh và Lễ bộ Thượng thơ Ngô Tùng Châu và Văn tế Đức thầy Bá Đa Lộc[1];
3/ Vua Trùng Quang có bài văn tế Nguyễn Biểu;
4/ Mấy bài văn tế nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu: Văn tế sĩ dân Lục tỉnh, Văn
tế vong hồn mộ nghĩa;
5/ Nguyễn Quý Tân có bài Văn tế sống vợ;
6/ Nguyễn Văn Thành là tác giả bài văn tế bằng Quốc âm Văn tế tướng sĩ trận
vong[2];
7/ Phạm Thái với Văn tế Trương Quỳnh Như
Tuy nhiên, do tính chất của một quyển tự điển, các tác phẩm trên hoặc chỉ được
nêu tên, hoặc có in kèm toàn bộ hay một phần tác phẩm mà thôi, không có phần
nào dành cho việc nghiên cứu. Mặc dù vậy, thông qua nó, chúng tôi cũng có
thêm nguồn tư liệu về một số tác phẩm mà chúng tôi chưa biết hoặc chưa sưu
tầm được.
2. Quyển sách duy nhất tập hợp (và tập hợp nhiều) tác phẩm văn tế là Văn tế cổ
và kim (Phong Châu – Nguyễn Văn Phú, Nxb. Văn hoá – Viện Văn học, 1960) đã
dành ra phần đầu để giới thiệu qua một số đặc điểm về nội dung và hình thức
nghệ thuật của văn tế. Văn tế “trước kia chủ yếu dùng vào việc hiếu để tỏ lòng
thương tiếc hoặc ca ngợi công đức người đã chết… có khi … để tế thần thánh
và ca ngợi người còn sống… Việc sử dụng văn tế không ở mức độ đơn giản như
thế mãi… Trong sự tiếc thương và ca ngợi công đức người quá cố, tác giả các
bài văn tế đã lồng vào để nói lên tâm trạng của mình trước thời cuộc. Cái khóc ở
đây không còn ở mức thuộc tình cảm cá nhân mà đã có tính chất xã hội…, chứa
đựng cả một tinh thần nhân đạo lớn lao.”
Về hình thức: văn tế theo thể phú (văn tế là một biến thể của phú), thể Đường
luật, văn xuôi, văn vần nhưng không đối nhau, lối tán, song thất lục bát…
Về nghệ thuật, “nghệ thuật văn tế mang rất nhiều dân tộc tính và về mặt hình
thức cũng có những nét riêng không đến nỗi quá gò bó như phú” nên khả năng
biểu hiện tình cảm cũng có đôi chút thoáng hơn.
Nhìn chung, đây là những đặc điểm đã được nhiều người công nhận. Điều đáng

những tình cảm lớn”, văn tế ở giai đoạn này “được sáng tác trong các phong trào
kháng chiến chống Pháp rầm rộ nên không chỉ bi thương mà còn căm phẫn”.
Trong phần sau của sách, tác giả có đôi dòng nhắc đến một số tác phẩm cụ thể
như Văn tế Cơ – ri – vi – ê (khuyết danh), Tế chinh Tây trận vong tướng sĩ (Văn
tế tướng sĩ đánh Pháp tử trận) của Lê Khắc Cần, Văn tế ông Cai Trí. Ngoài ra,
sách còn cho biết Nguyễn Quang Bích cũng có làm văn tế.
Tác giả cũng mạnh dạn đưa ra nhận định về hạn chế trong tư tưởng yêu nước
của Nguyễn Đình Chiểu là có hiện tượng “chuyển từ tin tưởng, hi vọng sang bi
quan, thất vọng”, “Ở bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc vẫn có cái thống thiết lâm li
của loại văn tế, nhưng không khí của toàn bài là hào hùng, sôi nổi. Đến bài Văn
tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh thì cái hào hùng, sôi nổi ấy mờ nhạt, khí thế “sống
đánh giặc, chết cũng đánh giặc” hay “sống thờ vua, chết cũng thờ vua” không
còn nữa. Bây giờ “sống thì chịu tuyết sương trời một góc, khó đem sừng ngựa
hẹn quy kỳ; thác rồi theo mưa ngút bể muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đưa tin
tức.” Tuy nhiên, tác giả chỉ bày tỏ sự cảm thông với Nguyễn Đình Chiểu mà
chưa đưa ra lý giải thoả đáng cho hiện tượng trên. Nhận định trên có đúng hay
không, nếu đúng thì vì nguyên nhân gì? Đây là điều cần phải làm rõ trong những
công trình nghiên cứu sâu về văn tế, nhất là văn tế của Nguyễn Đình Chiểu.
5. Một trong những bộ giáo trình Hán Nôm quan trọng nhất là Cơ sở ngữ văn
Hán Nôm (Lê Trí Viễn chủ biên, Nxb. Giáo dục, 1986) có một số dòng giới thiệu
khá ngắn gọn nhưng đề cập nhiều vấn đề về nội dung, nghệ thuật, thể tài của
văn tế, như “Văn tế có thể viết theo thể tự do (từ khúc, thể thơ, thể văn xuôi)
hoặc theo thể phú Đường luật”, “Văn tế có tính trữ tình rõ rệt”. Điều đáng nói là
về nội dung, các tác giả nhận định: Vì “mục đích [của văn tế] là nêu lên tính tình,
công đức của người chết và tỏ lòng thương tiếc của người còn sống” nên “nội
dung văn tế coi như bị mục đích hạn chế, văn tế nào cũng lấy cuộc đời người
quá cố làm đối tượng, nên cái khác nhau giữa các bài văn tế chỉ là sự khác nhau
ở con người cụ thể, người đã chết, người còn sống, và quan hệ giữa kẻ chết
người sống.” Nhận định này đúng nhưng chưa đủ. Đúng ở chỗ “nội dung bị hạn
chế”, vì đúng như tên gọi của nó, văn tế là một thể loại đặc thù viết ra để ca

tố cáo chiến tranh, là niềm mơ ước một cuộc sống thanh bình… Đây cũng chính
là một trong những nội dung quan trọng cần nghiên cứu thêm của văn tế thời
Tây Sơn nói riêng, văn tế trung đại nói chung.
Cũng trong quyển sách này, Phạm Thế Ngũ dẫn ra lời bình của Phạm Quỳnh về
“những cái hay” của Văn tế tướng sĩ trận vong của Tiền quân Nguyễn Văn
Thành-một bài văn tế được xem là kiệt tác trong loại thời Tây Sơn mà “thời ấy
cũng như sau này không một bài nào có thể hơn được”, đáng nói hơn, đây là lời
bình dài nhất, hay nhất về một tác phẩm văn tế mà chúng tôi được đọc qua các
quyển sách, xin trích một đoạn như sau: “Hay vì lời: lời đáng ghi vào vàng đá,
truyền đến muôn đời; khi gióng giả như dịp trống trong quân, khi tơi bời như
ngọn còi dưới nguyệt, khi ‘mịt mù như cơn gió lốc thổi dấu kẻ tha hương’, khi ‘lập
lòe như đám lửa trơi, soi chừng đám cổ độ’, khi hùng tráng như tiếng gươm tuốt
trong trận, khi lâm li như tiếng vượn khóc trên ngàn. Hay vì ý tứ: ý tứ thâm trầm,
muốn biểu dương công nghiệp của kẻ quân nhân đã giúp bản triều gây dựng
nên cơ đồ vĩ đại, người sống đã hết phận truy tùy, ‘chung nỗi ân ưu mà riêng
phần lao khổ’, kẻ chết cũng còn hộ được ‘Hoàng triều cho bể lặng sóng trong’…”
7. Trong Đặc trưng thể loại của văn tế (Ngô Gia Võ, Tạp chí Hán Nôm, số 1 năm
1998), sau khi nhắc lại một số đặc trưng thể loại chung của văn tế đã được công
bố và thừa nhận như: đối tượng, nội dung cơ bản, phương thức biểu cảm, thể
tài văn học, giá trị văn học; tác giả đã trình bày thêm một đặc trưng thể loại quan
trọng, đặc trưng này “nằm ở ý thức và mục đích sáng tác” của tác giả văn tế.
Theo đó, văn tế được sáng tác nhằm vào hai đối tượng: người sống và người
chết: “Văn tế đọc khi tế người chết để cho người đang sống nghe, nhưng trong ý
thức văn hoá cổ, trong tâm ý người xưa, văn tế còn để đọc cho người chết nghe.
Người đứng tế có niềm tin vững chắc rằng người chết có linh hồn, họ chết đi -
linh hồn họ còn tồn tại, người chết vẫn nghe thấy, nhìn thấy, vẫn tiếp nhận được
nội dung bài văn tế.” Chính ý thức này đã “chi phối tâm lý sáng tạo của nhà văn
thời trung đại”, tạo ra một “không gian nghệ thuật của riêng văn tế mà các thể
loại văn học khác tuyệt nhiên không có.”
Quan trọng hơn, từ đặc trưng này, tác giả còn tiến thêm một bước là xem xét lại


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status