Tài liệu CHƯƠNG 1 VAI TRÒ, VỊ TRÍ, ĐẶC ĐIỂM VÀ KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM - Pdf 10

CHƯƠNG 1
VAI TRÒ, VỊ TRÍ, ĐẶC ĐIỂM VÀ KHẢ NĂNG PHÁT
TRIỂN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM
Việt Nam là một trong những quốc gia trên thế giới có nghề nuôi trồng thủy
sản phát triển và cũng là nước có lịch sử nuôi trồng thủy sản lâu đời. Trải qua hàng
ngàn năm lịch sử cho đến nay nuôi trồng thủy sản đã trở thành một bộ phận quan
trọng đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân. Nuôi trồng thủy sản đã trở
thành một hoạt động sản xuất chủ yếu đối với rất nhiều ngư dân ở Việt Nam. nuôi
trồng thủy sản không những là nhân tố đóng vai trò chính trong ngành thủy sản mà
còn đóng một số vai trò nhất định trong nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng tích
lũy vốn, xuất khẩu thu về ngoại tệ cho nhà nước, cung cấp nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp và ngành y, dược, tạo việc làm cho lao động.
Với hơn 3.260 km bờ biển, 12 đầm phá và eo vịnh, 112 cửa sông, lạch, hàng
ngàn đảo lớn nhỏ ven biển, lại thêm hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt cùng
với các hồ thuỷ lợi, thuỷ điện, nước ta có một tiềm năng rất lớn về nuôi trồng thủy
sản với trên dưới 2 triệu ha diện tích mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản.
Trong 15 năm gần đây 1990-2005 diện tích nuôi trồng thủy sản đã phát triển cả ba
vùng nước: lợ, mặn, ngọt, đang mở rộng ở nước lợ và vươn ra biển. Với tốc độ
nhanh bình quân tăng khoảng 4÷5% năm. Năm 1996 diện tích nuôi trồng thủy sản
chỉ đạt 585.000 ha trong đó có khoảng 270.000 ha diện tích nuôi nước lợ, mặn
nhưng đến năm 2005 đã sử dụng 959.900 ha để nuôi thủy sản.(đối tượng nuôi chủ
yếu là tôm với diện tích là 580.465 ha) Trong nuôi trồng thủy sản đối tượng nuôi
phong phú, hình thức nuôi đa dạng. Nhiều giống loài thủy sản nuôi đã trở thành
sản phẩm hàng hóa, xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Nhiều hình thức nuôi như bán
thâm canh, thâm canh xuất hiện đã trở thành mô hình sản xuất tiên tiến, đã và đang
được mở rộng trong cả nước.
Tỉ lệ giữa đánh bắt thủy sản và nuôi trồng thủy sản như sau: Năm 1991 khai
thác thủy sản đạt 714.253 tấn chiếm 67,2%; nuôi trồng thủy sản đạt 347.910 tấn
chiếm 32,8%. Năm 1995 khai thác thủy sản đạt 928.860 tấn chiếm 69,1%; nuôi
trồng thủy sản đạt 415.280 tấn chiếm 30,9 %. Năm 2000 khai thác thủy sản đạt
1.280.570 tấn chiếm 63,9 %; nuôi trồng thủy sản đạt 723.123 tấn chiếm 36,1%. Do

Khai thác Nuôi trồng
Sản lượng Tỷ lệ % Sản lượng Tỷ lệ %
1991
1.062.163
714.253 67,2 347.910 32,8
1995
1.344.140
928.860 69,1 415.280 30,9
2000
2.003.693
1.280.570 63,9 723.123 36,1
2005 3.432.766 1.995.411 58,1 1.437.355 41,9
2006
2007
Thực tiễn đã chứng minh, nghề cá muốn có sự phát triển tốt phải dựa trên
tiền đề của nghề nuôi. Cho nên, cùng với sự gia tăng nhu cầu về lượng các sản
phẩm thủy sản, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế xã hội không
ngừng phát triển, nghề nuôi trồng thủy sản phải giữ vai trò chủ đạo đối với ngành
thủy sản.
Căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam thì đến
năm 2010 tổng sản lượng các sản phẩm thủy sản nuôi trồng thủy sản sẽ lên đến 2
triệu tấn, tăng tỉ trọng sản lượng ngành nuôi chiếm giữ trong tổng sản lượng các
mặt hàng thủy sản lên đến 50-60%. Ngành nuôi trồng thủy sản sẽ phát huy được
vai trò to lớn của mình trong ngành thủy sản nói riêng và nông nghiệp nói chung.
2
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Ngành nuôi trồng thủy sản là ngành sản xuất vật chất sử dụng nguồn tài
nguyên thiên nhiên như đất đai diện tích mặt nước, thời tiết khí hậu…để sản xuất
ra các loại sản phẩm thủy sản phục vụ cho nhu cầu đời sống của con người. Căn
cứ vào độ mặn của vùng nước người ta phân ngành nuôi trồng thủy sản thành nuôi

thì loài Hàu được coi là “ sữa bò biển”. Hàm lượng protein có trong thịt của loài
Hàu lên đến 45%-57%. Một số động vật thủy sản kinh tế khác như: ba ba, rùa,
tôm, cua, ếch…là những thực phẩm bổ dưỡng.
Việt Nam là một nước đang phát triển, đất chật, người đông, tài nguyên ít.
Lương thực vẫn là thức ăn chính cho người dân Việt Nam, Tỷ lệ chất protein và
3
lipid động vật trong thức ăn vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân trên
thế giới.
Hiện nay mức tiêu dùng của người Việt Nam đối với các loại thủy sản ước
tính chiếm khoảng 50% về tiêu dùng thực phẩm chứa Prôtêin. Riêng về cá đã cung
cấp khỏang 8kg/người /năm, trong đó nuôi trồng chiếm khoảng 30%. Những năm
tới xu thế đời sống nhân dân ngày một khá lên, mức tiêu dùng thực phẩm sẽ tăng.
Điều đáng quan tâm là ngày nay nhân dân có su thế thiên về sử dụng thực phẩm ít
béo. Do đó tôm, cá và các sản phẩm có nguồn gốc thủy sản được dùng làm thực
phẩm chiếm phần quan trọng. Trong đó các sản phẩm cá nuôi cung cấp tại chỗ, chi
phí vận chuyển ít, đảm bảo được tươi sống lại càng có vai trò quan trọng hơn.
Theo chiến lược phát triển kinh tế –xã hội của ngành thủy sản, đến năm 2010
tổng sản lượng thủy sản Việt Nam sẽ đạt khoảng trên 3,5 triệu tấn. Trong đó ưu
tiên cho xuất khẩu khoảng 40% và theo số liệu của FAO sản phẩm thủy sản dành
cho chăn nuôi 30%, thì sản lượng còn lại dành cung cấp thực phẩm cho người.
Nếu so với lượng tiêu dùng thủy sản bình quân đầu người trên thế giới theo ước
tính của FAO là 19,1 kg/người vào năm 1994 và so với mức 27 kg/người /năm của
các nước đang phát triển hiện nay thì ở nước ta chưa đáp ứng được.
1.2. Cung cấp thức ăn cho chăn nuôi, phân bón cho nông nghiệp
Sản phẩm phụ của ngành nuôi trồng thủy sản (các loại tôm cá tạp ), các phụ,
phế phẩm của các nhà máy chế biến thủy sản làm nguyên liệu cho các nhà máy
chế biến thức ăn gia súc, gia cầm và một số loại thức ăn cho tôm cá và theo số liệu
của FAO sản phẩm thủy sản dành cho chăn nuôi chiếm khoảng 30%. Hàng năm ở
Việt Nam đã sản xuất ra khoảng 40.000-50.000 tấn bột cá làm nguyên liệu cho các
nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc gia cầm và thức ăn cho tôm cá.

Sản phẩm thuỷ sản thương phẩm là sản phẩm xuất khẩu quan trọng của Việt
Nam, có tỉ xuất thu đổi ngoại tệ cao. Theo dự tính của các ngành hữu quan, nếu
thu đổi được 1 USD đối với các sản phẩm công nông nghiệp bình thường giá
thành bình quân thu đổi từ 0,7-0,9 USD, trong khi đó giá thành thu đổi các mặt
hàng nuôi trồng thủy sản tương đối thấp từ 0,3-0,5 USD. Cùng với các chính sách
cải cách và mở cứa của nền kinh tế, mối quan hệ giữa sự phát triển ngành thủy sản
Việt Nam và thị trường quốc tế ngày càng trở nên mật thiết. Các ngành nuôi trồng
thủy sản địa phương đã chủ trương phát triển kinh tế hướng ngoại để tham gia vào
thị trường cạnh tranh quốc tế, đẩy mạnh ngành nuôi trồng thủy sản phát triển nhằm
tạo ra ngoại tệ mạnh cho đất nước.
Hiện nay hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được ưa chuộng
ở nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Năm 1997 đã xuất khẩu sang 46
nước, năm 1998 là 50 nước, năm 2004 là 60 nước, năm 2005 là 105 nước, năm
2007 là 150 nước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào các thị trường lớn cũng ngày
một tăng. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản đạt 761,5 triệu
USD, năm 2005 đạt 2.650 triệu USD và năm 2006 đạt 3.400 triệu USD.
Đáng quan tâm trong cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu, nhóm sản phẩm tôm
vẫn là mặt hàng chủ lực chiếm tỷ lệ ngày càng cao, trong đó tôm nuôi chiếm tỷ
trọng tương đối cao. Năm 2004 tỷ lệ tôm chiếm 27,5% về khối lượng và 53% về
giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Các đối tượng khác như: nhuyễn thể, cá song, cá hồng, cá ba sa, cá sặc rằn,
cá quả, lươn, ba ba, ếch. v. v… xuất sống, phi lê đông lạnh cũng được các thị
trường ưa chuộng
Ở Nhật xu thế tiêu dùng hàng thủy sản thay cho thịt bình quân 71,5
kg/người và còn tiếp tục tăng. Thị trường Mỹ và EU cũng có su thế như vậy
5
Bảng 1- 1: Sản lượng và giá trị sản phẩm thủy sản xuất khẩu chính ngạch
Năm 1997-2005
Năm Sản lượng (tấn) Giá trị (USD)
1997 206.397,7 761.457.413

một bộ phận lớn ngư dân làm nghề khai thác ven bờ do nguồn lợi cạn kiệt, khai
thác kém hiệu quả, từng bước chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra còn một
bộ phận nông dân vừa sản xuất nông nghiệp, vừa nuôi trồng thủy sản, làm phong
phú thêm cho nền văn minh lúa nước, đưa nền văn minh lúa nước lên cao hơn,
hiện đại hơn.
6
Phát triển nuôi trồng thủy sản làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo
việc làm, tăng thu nhập, cải thiện mức sống cho nông ngư dân. Góp phần xây
dựng trật tự xã hội, an ninh nông thôn, vùng biển, biên giới, vùng sâu, vùng xa
2. Vị trí của ngành nuôi trồng thủy sản
Những năm gần đây, do việc khai thác quá mức ngư trường truyền thống và
việc khu đặc quyền kinh tế cách bờ 200 hải lý của các nước được mở rộng khiến
cho ngành khai thác thủy sản của rất nhiều quốc gia phải giảm năng lực khai thác.
Đánh bắt xa bờ đã không còn đáp ứng đủ nhu cầu về sản phẩm thủy sản đối với
người dân của nhiều nước. Chính vì vậy, rất nhiều quốc gia đã rất coi trọng việc
phát triển nghề nuôi trồng thủy sản. Tổ chức lương thực thế giới (FAO) cho rằng:
Nuôi trồng thủy sản đã trở thành cách làm nhanh nhất để tăng thêm nguồn đạm
thủy sản cho nhân loại
Để tăng thêm nguồn thực phẩm thủy sản cho nhân loại. Đặc biệt là những
quốc gia có nghề cá phát triển như nước Mỹ và Nhật Bản đã tập trung chuyển
hướng sang phát triển nghề nuôi trồng thủy sản. Ngay từ những năm 60, Nhật Bản
đã đề ra khẩu hiệu " Chuyển sự phát triển từ nghề khai thác thủy sản sang nghề nuôi
trồng thủy sản", sản lượng nuôi trồng thủy sản năm 1957 của Nhật Bản chỉ đạt
200.000 tấn đến năm 1986 đã lên đến 1.284.000 tấn. Theo thống kê của tổ chức
lương thực thế giới (FAO), Dự kiến sản lượng nuôi trồng thủy sản sẽ chiếm
khoảng 30% trong tổng sản lượng sản phẩm thủy sản.
Lấy nuôi trồng là chính, kết hợp nuôi trồng thủy sản và khai thác thủy sản,
đây không chỉ là yêu cầu khách quan của việc phát triển ngành thủy sản hiện nay ở
Việt Nam mà còn là một xu hướng phát triển tất yếu của ngành thủy sản trên thế
giới. Trong lịch sử phát triển ngành thủy sản, ngành khai thác được coi là phát

…và sinh vật có ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau đồng thời luôn có sự biến
đổi khôn lường. Sức lao động cùng bỏ ra như nhau nhưng chỉ gặp năm thời tiết
thuận lợi (mưa thuận, gió hòa) mới có thể đạt được năng suất, sản lượng cao. Mặt
khác bờ biển Việt Nam khá dài, điều kiện khí hậu thời tiết của từng vùng có sự
khác nhau do đó cùng một đối tượng nuôi nhưng ở những địa phương khác nhau
thì mùa vụ sản xuất khác nhau và hiệu quả kinh tế của nó cũng không giống nhau,
hơn nữa mức độ đầu tư cơ sở hạ tầng cũng quyết định khả năng sản xuất và trình
độ thâm canh của nghề nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, trong quá trình sản xuất,
ngành nuôi trồng thủy sản vừa chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên, vừa phải
chịu sự chi phối của quy luật kinh tế. Do đó nuôi trồng thủy sản là một hoạt động
sản xuất rất phức tạp.
Tính chất rộng khắp của ngành nuôi trồng thủy sản thể hiện nghề nuôi trồng
thủy sản phát triển ở khắp các vùng trong nước từ đồng bằng, trung du, miền núi
cho đến các vùng ven biển, ở đâu có đất đai diện tích mặt nước là ở đó có thể phát
triển nghề nuôi trồng thủy sản: từ hồ ao sông ngòi đến đầm phá eo, vịnh … Mỗi
vùng có điều kiện địa hình, khí hậu, thời tiết khác nhau, do đó dẫn tới sự khác
nhau về đối tượng sản xuất, về quy trình kỹ thuật, về mùa vụ sản xuất. Do đó trong
công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất của ngành cần lưu ý đến các vấn đề như: xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, chính sách giá cả,
đầu tư cho phù hợp đối với từng khu vực, từng vùng lãnh thổ.
2. Trong nuôi trồng thủy sản đất đai diện tích mặt nước vừa là tư liệu sản xuất chủ
yếu vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được
Đất đai diện tích mặt nước là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản
xuất, nhưng nội dung kinh tế của chúng lại rất khác nhau. Trong các ngành kinh tế
khác, đất đai chỉ là nền móng xây dựng nhà máy công xưởng, trụ sở phục vụ cho
việc sản xuất kinh doanh. Trái lại trong nuôi trồng thủy sản đất đai diện tích mặt
nước là tư liệu sản xuất chủ yếu vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế
được, không có đất đai diện tích mặt nước thì chúng ta không thể tiến hành nuôi
trồng thủy sản được.
8

3. Nuôi trồng thủy sản có tính thời vụ cao.
Trong nuôi trồng thủy sản ngoài sự tác động trực tiếp của con người, các đối
tượng nuôi còn chụi sự tác động của môi trường tự nhiên. Vì vậy trong nuôi trồng
thủy sản, quá trình tái sản xuất kinh tế xen kẽ với quá trình tái sản xuất tự nhiên,
thời gian lao động không hoàn toàn ăn khớp với thời gian sản xuất do đó nghề
nuôi trồng thủy sản mang tính thời vụ rất rõ rệt. Theo Lê- nin: “Thời gian mà lao
động có tác dụng đối với sản phẩm, thời gian đó gọi là thời gian lao động, còn
thời gian sản xuất tức là thời gian mà sản phẩm đang trong lĩnh vực sản xuất, nó
bao hàm cả thời gian mà lao động không có tác dụng đối với sản phẩm ”
9
Nhân tố cơ bản quyết định tính thời vụ là quy luật sinh trưởng và phát triển
của các đối tượng nuôi trồng, những biểu hiện chủ yếu của tính thời vụ trong nuôi
trồng thủy sản là:
- Đối với mỗi đối tượng nuôi trồng, các giai đoạn sinh trưởng, phát triển diễn
ra trong các khoảng thời gian khác nhau của mùa vụ sản xuất đòi hỏi thời gian,
hình thức và mức độ tác động trực tiếp của con người tới chúng khác nhau. Có
thời gian đòi hỏi lao động căng thẳng, có thời gian ít căng thẳng.
- Cùng một đối tượng nuôi trồng thủy sản nhưng ở những vùng có điều kiện
khí hậu thời tiết khác nhau thường có mùa vụ sản xuất khác nhau.
- Các đối tượng nuôi trồng thủy sản khác nhau có mùa vụ sản xuất khác nhau.
Tính thời vụ của nuôi trồng thủy sản có su hướng dẫn tới tính thời vụ trong
việc sử dụng các yếu tố sản xuất nhất là sức lao động, công cụ lao động và đất đai
diện tích mặt nước.
Do điều kiện lao động thủ công, điều kiện tự nhiên, thời tiết diễn biến bất
thường, tính thời vụ trong nuôi trồng thủy sản càng gây lên nhiều vấn đề phức tạp
trong tổ chức quản lý sản xuất và kinh doanh. Để giảm bớt tính chất thời vụ trong
nuôi trồng thủy sản chúng ta cần lưu ý các vấn đề sau:
- Nghiên cứu đặc điểm địa hình, khí hậu, thời tiết từng vùng để bố trí sắp xếp
các đối tương nuôi trồng cho phù hợp nhằm sử dụng có hiệu quả đất đai diện tích
mặt nước, lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật …

thời bộ thủy sản phải chủ trương xây dựng được một hệ thống giống quốc gia, hệ
thống giống cho từng vùng từng khu vực. Hệ thống giống quốc gia bao gồm:
1. Các trung tâm tâm giống trực thuộc bộ có nhiệm vụ:
- Chọn tạo giống, lưu giữ, nuôi dưỡng giống gốc để nhân ra giống ông bà cấp
cho các trung tâm, trại giống của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Chuyển giao giống mới, công nghệ mới về giống, về thức ăn, phòng trị
bệnh, quản lý môi trường cho các tỉnh, thành phố.
2. Các trung tâm giống khu vực thuộc Sở Thủy sản –Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn làm nhiệm vụ.
- Nhận giống thuần chủng từ các trung tâm giống trực thuộc bộ lưu giữ và
nhân ra, chuyển giao giống mới, công nghệ mới cho người sản xuất.
Chọn lọc, lưu giữ và nhân ra các dòng, các phẩm giống của địa phương
6. Ngoài những đặc điểm chung nói trên, nuôi trồng thủy sản Việt Nam còn có một
số đặc điểm riêng đó là:
6.1. Ngành nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam có từ lâu đời song hiện tại vẫn trong tình
trạng của một nền sản xuất nhỏ, phân tán, lao động chủ yếu còn là thủ công.
- Cơ cấu ngành thủy sản đang chuyển dịch theo yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa–hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó ngành nuôi trồng thủy sản phải thấy hết
những tồn tại khó khăn của nền sản xuất nhỏ đó là: cơ sở vật chất kỹ thuật còn
thấp, trình độ văn hóa khoa học kỹ thuật và quản lý của cán bộ nông dân ở nhiều
nơi nhất là các vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa còn quá yếu kém, tâm lý người
sản xuất nhỏ phân tán bảo thủ lạc hậu. v. v… Để quản lý sản xuất kinh doanh đạt
hiệu quả cao.
- Phải nhận thức đúng tính tất yếu của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong
ngành nuôi trồng thủy sản, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực
hiện tốt những quy định của nhà nước về đổi mới quản lý kinh tế trong nuôi trồng
thủy sản nhất là các doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp tập thể.
11
6.2. Trong nuôi trồng thủy sản đất đai diện tích mặt nước phân bố không đều giữa

Trong những năm qua ngành nuôi trồng thủy sản đã và đang phát triển một cách
vượt bậc tốc độ tăng diện tích nuôi trồng từ 1989-1998 đạt khoảng 4-5%/năm. Diện tích
vùng triều đã đưa vào sử dụng đạt trên 70%.
Bảng 1-2: Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản, Năm 2001-2005
Vùng 2001 2002 2003 2004 2005
1. Đồng bằng Sông Hồng 71.333 77.069 81.149 84.763 90.215
2. Đông Bắc 31.289 35.874 40.967 42.134 45.225
3. Tây Bắc 3.821 4.433 4.687 4.974 5.120
12
4. Bắc Trung Bộ 32.716 36.298 39.806 45.356 45.593
5. Nam Trung Bộ 19.245 20.447 21.566 22.151 24.086
6. Tây Nguyên 5.643 5.684 6.175 6.642 6.955
7. Đông Nam Bộ 44.409 47.623 52.083 55.521 57.501
8. Đồng bằng Sông cửu Long 546.722 570.318 621.180 658.548 685.250
Tổng số 755.178 797.744 867.613 920.088 959.945
Đồng bằng sông cửu Long là vùng có tiềm năng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy
sản lớn nhất chiếm gần 60% tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản của cả nước.
1.2. Hình thức và đối tượng nuôi
+ Nuôi tôm nước lợ: Những năm gần đây tôm được nuôi ở khắp các tỉnh ven
biển trong cả nước, nhất là tôm sú. Diện tích nuôi tôm năm 2005 khoảng 604.479
ha, chiếm hơn 90% tiềm năng nuôi trồng thủy sản vùng triều. đối tượng nuôi chủ
yếu là các loài trong giống tôm he (Penaeus), tôm Rảo (Metapenaeus). tôm chân
trắng ( Litopenaeus) Tôm được nuôi trong ao đầm theo mô hình khép kín, nuôi
trong ruộng (1vụ tôm +1 vụ lúa) và nuôi tôm trong rừng ngập mặn.
Song nhìn chung hình thức nuôi tôm hiện nay chủ yếu vẫn là nuôi quảng
canh và quảng canh cải tiến. Diện tích nuôi bán thâm canh và thâm canh cồn ít và
năng xuất thấp. Đến năm 2005 diện tích nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh và
thâm canh là 67.516 ha, năng xuất đạt 2÷5 tấn/ha.
Năng xuất quảng canh đạt bình quân 150÷200 kg/ha, nuôi quảng canh cải
tiến 250÷500kg/ha, xen canh tôm lúa năng xuất đạt 200÷300kg/ha. Nuôi bán thâm

đối tượng nuôi trồng là: Tôm càng xanh, cá ba sa, cá tra, cá trê lai, cá mè vinh,cá
tai tượng, cá bống tượng, cá sặc rằn, năng xuất bình quân khoảng 2,5÷3 tấn/ha. Ở
các tỉnh Miền Bắc đối tượng nuôi trồng là: Chép, chép lai 3 máu, rô phi đơn tính,
rô phi thuần, cá trôi, trắm cỏ, rô hu, Mrigal, Catla, cá trê lai, cá mè…năng xuất
bình quân 1,5÷1,8 tấn/ha.
Theo thống kê chưa đầy đủ đến năm 2005 diện tích nuôi trồng thủy sản nước
ngọt trong toàn quốc là 318.900 ha, sản lượng đạt trên 890.640 tấn. Trong đó tập
trung nhiều ở Đồng bằng Sông hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long.
+ Nuôi thủy sản ruộng trũng: Những năm gần đây do phong trào chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ruộng trũng cấy lúa bấp bênh và ruộng cấy lúa có mức
nước ổn định cũng đã được sử dụng vào nuôi trồng thủy sản, với các hình thức
luân canh, xen canh tôm lúa, cá lúa. Ở Miền Bắc đối tượng nuôi trồng chủ yếu là
cá chép, cá trôi, rô phi thuần, rô hu, nuôi xen canh năng xuất bình quân
200÷250kg/ha. Nuôi luân canh năng xuất đạt 300÷500kg/ha. Ở Miền Nam đối
tượng nuôi trồng chủ yếu là mè vinh, rô phi, cá Sặc rằn, cá mùi, cá lóc, tôm càng
xanh. Năng xuất bình quân về cá 300÷350kg/ha,về tôm 300÷400kg/ha. Đến nay
diện tích ruộng trũng đưa vào nuôi thủy sản khoảng 154.200 ha chiếm 26,6%.
Trong đó tập trung nhiều ở Đồng bằng Sông hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long.
+ Nuôi cá trên sông, hồ chứa: Hình thức nuôi chủ yếu là lồng, bè và kết hợp
với khai thác cá trên sông. Hình thức này đã tận dụng được diện tích mặt nước, tạo
được việc làm, tăng thu nhập, góp phần ổn định đời sống của những người sống
trên sông, ven hồ. Ở các tỉnh phía Bắc và Miền Trung đối tượng nuôi trồng chủ
yếu là Trắm cỏ, quy mô lồng nuôi khoảng 12÷24 m
3
, năng xuất bình quân
450÷600 kg/lồng. Ở các tỉnh phía Nam đối tượng nuôi trồng chủ yếu là cá ba sa,
cá lóc, cá bống tượng, cá he. Quy mô lồng, bè nuôi lớn trung bình khoảng
100÷150m
3
/bè, năng xuất bình quân 15÷20 tấn/bè.

+ Thiếu quy hoạch tổng thể và cụ thể cho từng vùng để xác định rõ hướng
phát triển lâu dài. Sự phát triển ồ ạt diện tích nuôi tôm trong thời gian qua đã dẫn
đến nhiều bất cập.
+ Công tác quản lý chất lượng côn giống chưa chặt chẽ
+ Diện tích nuôi trồng thủy sản theo mô hình thâm canh và bán thâm canh
còn ít. Công nghệ sản xuất giống, thức ăn và công nghệ dịch vụ nuôi chưa tiến kịp
nhu cầu, năng suất tôm nuôi còn thấp.
+ Chưa chủ động cảnh báo và kiểm soát được tình hình bệnh tôm…
+ Vốn và chất lượng lao động chưa đáp ứng nhu cầu của sản xuất
2. Khả năng phát triển ngành nuôi trồng thủy sản ở nước ta
2.1. Tiềm năng về diện tích mặt nước
15
Theo số liệu thống kê của bộ thủy sản, tổng diện tích mặt nước có khả năng
khai thác và nuôi trồng thủy sản ở nước ta đến năm 2010 là 3.000.000 ha. Trong
đó diện tích mặt nước nuôi là 1.700.000 ha được phân bổ theo cơ cấu như sau:
Bảng 1-3: Tiềm năng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam
STT Loại mặt nước Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
1 Diện tích ao hồ nhỏ, mương vườn 120.000 7,1
2 Diện tích mặt nước lớn 340.000 20,0
3 Diện tích ruộng trũng 580.000 34,1
4 Diện tích vùng triều nước mặn lợ 660.000 38,8
Tổng cộng 1.700.000 100,0
Ngoài ra còn có diện tích sông, các vũng, vịnh quanh đảo có thể nuôi trồng
thủy sản ước khoảng 300.000÷400.000 ha.
2.2. Về nguồn lợi thủy sản
2.2. 1. Nguồn lợi thủy sản nước ngọt được chia ra làm hai vùng chính
+ Khu hệ cá phía Bắc: Đã thống kê được khoảng 240 loài thuộc khu hệ cá
Hoa Nam–Trung Quốc. Trong đó có khoảng 30 loài có giá trị kinh tế, có 15 loài cá
nuôi đã thuần hóa và nhập nội. Đặc sản có ba ba, lươn, ếch…
+ Khu hệ cá nước ngọt phía Nam: Đã thống kê được 255 loài cá thuộc hệ cá

Nam và Miền Trung.
2.3. Tiềm năng về lao động.
Lao động trong nuôi trồng thủy sản Việt Nam giầu về số lượng, nhưng chưa
đảm bảo về chất lượng. Năm 2005 lao động nghề cá có khoảng 5 triệu người,
trong đó nuôi trồng thủy sản 1.215.952 người chiếm 24,31 % tổng số lao động
nghề cá. Dự kiến Năm 2010 tổng số lao động nghề cá ước tính khoảng 6 triệu
người, trong đó nuôi trồng thủy sản 1,5 triệu chiếm 25% tổng số lao động nghề cá.
III. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở NƯỚC
TA,
1. Chiến lược chung
1.1. Căn cứ xây dựng chiến lược
Để có được một chiến lược phát triển nuôi trồng thủy sản đúng đắn, cần căn
cứ vào các điều kiện sau:
- Nguồn tài nguyên nuôi trồng thủy sản của đất nước (đất đai, diện tích mặt
nước, khí hậu, thời tiết …)
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành nuôi trồng thủy sản (thủy lợi, cơ khí, điện,
điều kiện giao thông …)
- Lao động và trình độ người lao động trong nuôi trồng thủy sản.
- Trình độ phát triển của khoa hoc và kỹ thuật.
- Nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế đối với sản phẩm nuôi trồng
thủy sản.
1.2. Chiến lược
Căn cứ vào những điều kiện trên của ngành nuôi trồng thủy sản, chúng ta có
thể chọn chiến lược sau đây:
17
“ Phát triển ngành nuôi trồng thủy sản toàn diện, đạt trình độ thâm canh cao, và
theo hướng sản xuất hàng hóa”
+ Phát triển nuôi trồng thủy sản toàn diện: có nghĩa là chúng ta nuôi trồng tất
cả các đối tượng mà điều kiện tự nhiên, môi trường cho phép và sản phẩm của
chúng thị trường trong và ngoài nước đang cần.

thủy sản nước ngọt, lợ, mặn. Trong đó nuôi thâm canh mặt nước ao hồ nhỏ, nuôi
tôm công nghiệp vùng cao triều.
+ Giai đoạn 2010- 2020 sử dụng khoảng 70% -80% tiềm năng về diện tích
mặt nước, mở rộng nuôi trồng thủy sản trên eo, vịnh, đầm phá ven biển, vùng cửa
sông, ruộng trũng hồ chứa. Đồng thời triển khai nuôi thâm canh trên diện rộng ở
các dạng diện tích đã nuôi ở giai đoạn 2005- 2010.
18
Đối tượng nuôi trồng: Phát triển nuôi các đối tượng cá có gía trị kinh tế cao
tạo sản phẩm cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nuôi tôm sú, tôm càng
xanh, cá biển, nhuyễn thể tạo sản phẩm xuất khẩu, di giống, thuần hóa giống, chọn
và lai tạo giống nuôi mới có chất lượng và gía trị cao hợp thị hiếu người tiêu dùng
bổ sung vào cơ cấu đàn giống nhằm nâng cao hiệu quả trong nuôi trồng thủy sản
và đa dạng hóa giống loài nuôi:
+ Nhóm tôm: Các loài trong họ tôm he (Penaeus) như: tôm sú (P. monodon),
tôm bạc (P. merguiensis), tôm bạc thẻ (P. indicus), tôm nương (P. orientalis), tôm
raỏ (Metapenaeus ensis) tôm càng xanh, tôm hùm.
+ Nhóm cá biển: cá mú, cá giò, cá hồng, cá tráp, cá vược, cá măng, cá chim
+ Nhóm cá nước ngọt: ba sa, cá chép, cá rô phi, bống tượng, cá tra, rô hu,
Catla, tai tượng, sặc rằn, cá quả, cá rô, cá trôi, cá trắm cỏ, cá mè…
+ Nhóm nhuyễn thể: Nghêu, ngao, sò, trai ngọc, hầu, vẹm, điệp, ốc hương,
+ Nhóm rong tảo: Rong câu, rong sụn.
Công nghệ nuôi trồng
Trên cơ sở đặc điểm sinh thái và tiềm năng của từng vùng địa lý, từng vùng
mặt nước để xác định các đối tượng nuôi, công nghệ nuôi và quy mô phù hợp, phát
triển nuôi trồng thủy sản năng xuất, hiệu quả kinh tế cao và bền vững
- Đẩy mạnh nuôi thâm canh các đối tượng có giá trị xuất khẩu cao như tôm
sú, tôm càng xanh, cá biển, nhuyễn thể, cá ba sa, cá rô phi, cá lóc và các đặc sản
khác.
- Đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật của thế giới và khu vực vào Việt Nam theo
hướng du nhập những công nghệ mới về giống, nuôi, thức ăn, quản lý môi trường

sản khai thác được tối đa lợi thế so sánh, đảm bảo nuôi trồng thủy sản phát triển
nhanh, mạnh và vững chắc.
20


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status