LUẬN VĂN: Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm doc - Pdf 15


LUẬN VĂN:
Phương hướng hoàn thiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về phiên
tòa sơ thẩm mở đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) nói riêng là một nhu cầu khách quan
nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự đang ngày càng gia
tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng loại vụ việc. Quá trình xây
dựng và hoàn thiện pháp luật TTDS nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, đảm
bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và

cách đầy đủ các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự. Hơn nữa BLTTDS 2004 bắt đầu
có hiệu lực kể từ 1/1/2005, nên chưa có một hội nghị tổng kết hay hội thảo khoa học
nhằm nêu ra những tồn tại, vướng mắc trong quá trình áp dụng. Một số công trình
nghiên cứu của một số tác giả nhưng đề cập đến các vấn đề khác như: Luận văn thạc sĩ
"Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Hoài Nam;
Luận văn thạc sĩ "Các cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Thị Hà; Luận
văn thạc sĩ "Thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - Cơ sở lý luận và thực
tiễn" của Nguyễn Thị Thu Hà
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu các quy
định về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo quy định của BLTTDS mà không nghiên cứu vấn
đề này đối với việc dân sự. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu một số quan điểm trong các
Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 về cải cách tư pháp với mục đích làm sáng tỏ trọng tâm
nghiên cứu của đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo tinh thần
cải cách tư pháp. Từ đó nhiệm vụ của đề tài là giải quyết về mặt lý luận các khái niệm
thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như các vấn đề có liên quan. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành, nêu lên thực trạng của việc áp dụng
luật trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự tại phiên tòa sơ thẩm. Trên cơ sở
đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp

Vụ án dân sự bao gồm các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà các chủ thể không tự thỏa
thuận được buộc phải khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết. Việc đương sự khởi kiện yêu
cầu tòa án giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự là sự kiện làm phát sinh tố
tụng phiên tòa. Hay nói cách khác, "tranh chấp dân sự" kết hợp với yếu tố "kiện" của
đương sự là tiền đề để tòa án mở phiên tòa xét xử. Ngoài yếu tố "kiện" là bản chất của

vụ án dân sự, yếu tố chủ thể là nguyên đơn, bị đơn cũng là đặc trưng của loại tố tụng xét
xử sơ thẩm dân sự. Vụ án dân sự được BLTTDS quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 ở
trong các lĩnh vực như dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
bao gồm:
* Những tranh chấp dân sự truyền thống:
- Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
- Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
- Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp
các bên tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp về thừa kế tài sản.
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của
pháp luật về đất đai.
- Tranh chấp liên quan đến nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.
- Các tranh chấp về dân sự mà pháp luật có quy định.
* Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình:
- Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
- Tranh chấp về cấp dưỡng.
- Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.

đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết
mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội
đồng trọng tài lao động, bao gồm:
+ Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều
kiện khác.
+ Về thực hiện thỏa ước lao động tập thể.
+ Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
- Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Ngoài khái niệm vụ án dân sự, BLTTDS còn phân biệt một loại việc cũng thuộc
thẩm quyền giải quyết của tòa án đó là việc dân sự.
Việc dân sự là các loại việc trong đó các chủ thể không có tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ dân sự (theo nghĩa rộng) mà chỉ yêu cầu tòa án công nhận một sự kiện
pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự hay yêu cầu tòa án công nhận cho
mình quyền về dân sự. Do đó, việc dân sự được giải quyết theo một thủ tục tố tụng khác
độc lập mà không làm căn cứ phát sinh hoạt động tố tụng xét xử của tòa án.
Việc dân sự được quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS như sau:
* Những yêu cầu về dân sự:
- Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi
dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vị dân sự.
- Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản
của người đó.
- Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người
mất tích.
- Yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết.

- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự,
quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của tòa án nước ngoài
hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án,
quyết định hình sự, hành chính của tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại

đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự.
1.1.2. Cơ chế giải quyết vụ án dân sự theo trình tự tố tụng sơ thẩm
Sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện, có hai cơ chế tố tụng giải quyết vụ án dân
sự có thể thực hiện là: Có thể thông qua hoạt động hòa giải hoặc phải mở phiên tòa xét
xử.
Hòa giải là một chế định mang tính đặc thù trong TTDS. Xuất phát từ quyền
quyết định và tự định đoạt cũng như yếu tố thỏa thuận trong quan hệ dân sự, các chủ thể
có thể thỏa thuận vào bất cứ thời điểm nào để tự bản thân họ giải quyết tranh chấp. Hòa
giải trong TTDS có nhiều ưu điểm vượt trội, vừa thể hiện tính nhân văn trong hoạt động
tư pháp đồng thời phát huy được các giá trị truyền thống, tinh thần đoàn kết, giúp đỡ
trong nhân dân. Sau khi thụ lý đơn khởi kiện, tòa án có trách nhiệm tổ chức các phiên
hòa giải để đương sự có điều kiện thỏa thuận với nhau. Khi tiến hành hòa giải, chỉ các
đương sự có quyền quyết định nội dung giải quyết tranh chấp, tòa án chỉ là người hướng
dẫn về mặt pháp luật, khuyến khích các bên thương lượng, đàm phán đồng thời đảm bảo
việc hòa giải không bị ép buộc và phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu đương sự
thỏa thuận được với nhau để giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động hòa giải, việc
giải quyết vụ án coi như kết thúc mà không cần tòa án tiến hành xét xử. Hòa giải thành
một vụ án dân sự không chỉ giải quyết dứt điểm mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn
giảm bớt các thủ tục tốn kém thời gian, công sức của đương sự và cơ quan xét xử.

Tuy nhiên, không phải tranh chấp dân sự nào cũng giải quyết được bằng con
đường hòa giải. Nhiều tranh chấp chỉ được giải quyết thông qua hoạt động xét xử của
tòa án. Đối với những tranh chấp dân sự khởi kiện ra tòa án, sau khi hòa giải không
thành, hoặc không tiến hành hòa giải được (một số trường hợp pháp luật quy định
không được hòa giải) thì tranh chấp đó chỉ có thể giải quyết thông qua hoạt động xét xử
của tòa án tại phiên tòa sơ thẩm.Việc một vụ án dân sự không thể giải quyết được bằng
con đường hòa giải đồng nghĩa với việc các đương sự không thể tự giải quyết được
tranh chấp của họ, khi đó vai trò giải quyết nội dung tranh chấp thuộc về tòa án thông
qua việc xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
phụ thuộc vào phán quyết của tòa án dựa trên cơ sở xem xét, đánh giá chứng cứ, kết quả

Phiên tòa sơ thẩm dân sự được tiến hành vào thời gian và tại địa điểm được ghi
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu không có căn cứ hoãn phiên tòa hoặc không
phải trong trường hợp pháp luật quy định xét xử vắng mặt thì những người tiến hành tố
tụng, đương sự và những người tham gia tố tụng khác (trong trường hợp cần thiết) phải
có mặt đầy đủ tại phiên tòa. Ngoài một số trường hợp tòa án phải xét xử kín, phiên tòa
sơ thẩm dân sự được xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa.
Từ những phân tích trên đây, có khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự như sau:
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là hình thức tổ chức hoạt động xét xử của tòa án, trong đó vụ
án dân sự được đưa ra xét xử lần đầu, do một tòa án cấp huyện hoặc một tòa án cấp
tỉnh thực hiện theo thẩm quyền trên cơ sở một trình tự, thủ tục nhất định.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là hoạt động của cơ quan xét xử được điều chỉnh bởi
Luật tổ chức tòa án nhân dân (TAND) và pháp luật TTDS. Chính vì vậy, nó cũng có
những đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm nói chung như: Thành phần Hội đồng xét xử có
sự tham gia của Hội thẩm nhân dân; trình tự, thủ tục xét xử tuân theo trình tự xét xử sơ
thẩm; đối tượng xét xử thuộc thẩm quyền xem xét lần đầu tiên của tòa án cấp sơ thẩm;
sự có mặt đầy đủ của các bên đương sự và những người có liên quan đến việc giải quyết

vụ án (phiên tòa phúc thẩm chỉ có mặt những người có liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị); bản án, quyết định tại phiên tòa sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị…
Ngoài ra, phiên tòa sơ thẩm dân sự có đặc điểm sau:
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là nơi diễn ra các hoạt động tố tụng của riêng cơ quan
xét xử trên cơ sở đơn khởi kiện của đương sự yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp dân sự.
Nếu như việc mở phiên tòa sơ thẩm hình sự là kết quả của quá trình điều tra, truy tố thì
việc mở phiên tòa sơ dân sự lại xuất phát từ ý chí của các bên đương sự sau khi vụ án
không giải quyết được thông qua việc hòa giải.
Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, thứ tự hỏi và trình tự phát biểu khi tranh luận đề
cao vai trò, vị trí của các bên đương sự. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa dân sự (nếu
có) không có vai trò như trong phiên tòa hình sự, họ chỉ tham gia với tư cách là người
giám sát hoạt động xét xử của tòa án mà không can thiệp vào nội dung tranh chấp của
các đương sự. Vị trí, vai trò của các đương sự tại phiên tòa thể hiện xu hướng dân chủ

và quyền kháng cáo đối với bản án.
Trong mối quan hệ với toàn bộ quá trình TTDS, phiên tòa sơ thẩm dân sự được
coi là thời điểm chấm dứt việc giải quyết một vụ án dân sự nếu như các chủ thể không
thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị. Tại phiên tòa sơ thẩm, nếu các thủ tục tố tụng
được thực hiện đầy đủ, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập đầy đủ và được xem xét, đánh
giá một cách khách quan, phán quyết của tòa án là có căn cứ, công bằng và thấu tình đạt
lý, làm cho các bên đương sự "tâm phục khẩu phục" thì vụ án dân sự sẽ khép lại sau khi
kết thúc phiên tòa.
Trong giai đoạn hiện nay, theo tiến trình cải cách tư pháp được đề ra theo tinh
thần Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49, phiên tòa sơ thẩm dân sự đang ngày càng khẳng
định được vai trò của nó trong việc nâng cao chất lượng xét xử của tòa án. Các phán
quyết của tòa án phụ thuộc vào diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nhất là phần trình bày,

tranh luận, xem xét, đánh giá chứng cứ và quan điểm của các bên đương sự. Dần dần
xóa bỏ tình trạng "án bỏ túi", án được duyệt sẵn, việc phán xét ở phiên tòa bị áp đặt,
không khách quan và thiếu sức thuyết phục, làm cho hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ
thẩm mất đi vai trò đích thực của nó. Phiên tòa sơ thẩm dân sự phải là "nơi nói lên tiếng
nói của công lý, nói lên sự xác nhận của luật pháp đối với vụ án đã xảy ra và thái độ
của luật pháp với việc đã xảy ra như thế nào. Tòa án nói lên những nhận định và quyết
định của mình là nhân danh Nhà nước như chúng ta thường ghi trong bản án" [24]
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Nhiệm vụ đó được thực hiện thông qua hoạt động xét xử
của tòa án, để thực hiện được nhiệm vụ đó "trong công tác xử án phải công bằng, liêm
khiết, trong sạch [12, tr. 188]. Phiên tòa sơ thẩm dân sự là "nơi phản ảnh đầy đủ và sâu
sắc nhất bản chất của một nền công lý, biểu hiện tập trung của quyền tư pháp" [20, tr.
3], nó có ý nghĩa cả về mặt pháp luật cũng như về mặt chính trị - xã hội.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự trước hết phản ánh rõ chức năng xét xử của tòa án.
Kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự là sự thể hiện cụ thể vai trò, nhiệm vụ của tòa án
trong việc duy trì trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giúp cho các quan
hệ dân sự phát triển ổn định và lành mạnh, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp

1.2.1. Những nguyên tắc chung
Nguyên tắc chung là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo có giá trị cho cả phiên tòa
sơ thẩm hình sự và phi hình sự. Việc mở phiên tòa sơ thẩm dân sự trước hết phải đảm
bảo yêu cầu của các nguyên tắc chung sau đây:
1. Nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự.
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 129 Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ sung
năm 2001), Điều 4 Luật tổ chức TAND 2002 và tiếp tục được khẳng định tại Điều 11
BLTTDS 2004. Sự tham gia của hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử
nhằm tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tư pháp, đảm bảo tính khách quan, chính

xác trong hoạt động xét xử của toà án, đồng thời là hình thức nhân dân thực hiện quyền
giám sát của mình đối với hoạt động của cơ quan nhà nước. Khi xét xử, hội thẩm ngang
quyền với thẩm phán quyết định mọi vấn đề thuộc nội dung vụ án, cả về áp dụng luật nội
dung cũng như luật tố tụng.
2. Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật.
Theo nguyên tắc này, khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập với
các chủ thể khác bên ngoài Hội đồng xét xử cũng như độc lập giữa các thành viên trong
Hội đồng xét xử với nhau. Quá trình kiểm tra, xem xét, đánh giá chứng cứ dựa trên cơ
sở nhận thức của mỗi thành viên Hội đồng xét xử mà không bị chi phối bởi yếu tố bên
ngoài. Khi nghị án, hội thẩm biểu quyết trước, thẩm phán là người biểu quyết sau cùng.
3. Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể.
Việc xét xử của tòa án được thực hiện bởi một tập thể bao gồm các thành viên
trong Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử của phiên tòa sơ thẩm bao gồm các thẩm phán
và hội thẩm nhân dân. Việc xét xử tập thể sẽ tập trung trí tuệ của các thành viên Hội
đồng xét xử giúp cho việc nâng cao chất lượng xét xử của tòa án. Các thành viên Hội
đồng xét xử giải quyết từng vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số. Người có
ý kiến thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến của mình trong hồ sơ vụ án.
4. Nguyên tắc xét xử công khai.
Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện như sau: Việc xét xử của tòa án

sự còn phải tuân thủ các nguyên tắc như sau:
1. Nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: (Điều 4
BLTTDS)
Nguyên tắc này được thể hiện như sau:

Khi đương sự có quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và yêu cầu tòa án
giải quyết, tòa án có trách nhiệm xem xét và hướng dẫn họ thực hiện các thủ tục cần
thiết để tòa án thụ lý đơn khởi kiện. Sau khi tòa án tiến hành hòa giải không thành, hay
không thể tiến hành hòa giải được hoặc trong một số trường hợp pháp luật không cho
phép hòa giải. Nếu có đương sự tiếp tục yêu cầu thì tòa án phải mở phiên tòa để xét xử
theo yêu cầu của họ.
Trong quá trình giải quyết vụ án nói chung cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nói
riêng, tòa án phải tôn trọng việc thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của
đương sự. Tòa án chỉ giải quyết vụ án trong phạm yêu cầu của đương sự. Tại phiên tòa
xét xử, nếu đương sự rút đơn khởi kiện thì tòa án phải đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Ngoài ra, theo nguyên tắc này, các đương sự có quyền thuê, nhờ, ủy quyền cho
luật sư hay người khác làm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình trong quá
trình giải quyết vụ án.
2. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5
BLTTDS).
Đây là một trong những nguyên tắc đặc trưng của pháp luật TTDS. Đương sự
có quyền quyết định và tự định đoạt đối với yêu cầu của họ trong suốt quá trình giải
quyết vụ án. Bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại có quyền yêu cầu hoặc không
yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay cả sau khi đơn khởi
kiện đã được tòa án thụ lý.
Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần
hay toàn bộ yêu cầu, Hội đồng xét xử chỉ xét xử trong phạm vi yêu cầu đó. Nếu tại
phiên tòa các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và sự thỏa
thuận đó là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử tôn
trọng sự thỏa thuận của họ và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

thành và phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam gắn liền với những biến cố lịch sử
của dân tộc cũng như các giai đoạn phát triển, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.
1.3.1. Giai đoạn 1945 - 1959
Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chính của cách mạng nước ta là thực hiện cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất
nước nhà. Vì vậy, Nhà nước không có điều kiện xây dựng hệ thống văn bản pháp luật
mới mà chủ yếu tiếp tục sử dụng các văn bản pháp luật của chế độ cũ phù hợp với lợi
ích của chính quyền cách mạng và nhân dân lao động. Tuy nhiên, trong giai đoạn này đã
có một số văn bản pháp luật ra đời đánh dấu sự xuất hiện các quy định về phiên tòa sơ
thẩm dân sự:
Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán.
Theo TS. Định Ngọc Hiện: "Lịch sử tố tụng dân sự tại tòa bắt đầu từ ngày 24/1/1946"
[40]. Đây được coi là văn bản đầu tiên chứa đựng các quy phạm TTDS của nước ta. Về
phiên tòa sơ thẩm dân sự, văn bản này đã có các quy định về người tiến hành tố tụng,
nghị án và tuyên án và cách thức tổ chức một phiên tòa, chẳng hạn như Điều 10 quy
định: "Tại phiên tòa thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký lập biên bản từ";
Điều 31 và Điều 41: "Nghị án xong tòa lại họp và ông Chánh án tuyên đọc công khai
bản án"; Điều 10 khoản 2: "Thẩm phán sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện, dù là ngày
chủ nhật. lại có thể nếu cần đến mở phiên tòa ngoài trụ sở của tòa án, ở nơi cách xa tòa
án". Quy định về trách nhiệm của thẩm phán trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các
đương sự: "Thẩm phán không được tự đặt ra lệ mà xử đoán" (Điều 81); " Thẩm phán không
được tự biện hộ trước tòa án…" (Điều 82); "Các thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận,
dự đều các phiên tòa, xét xử thật nhanh chóng và thật công minh. Thanh liêm là đức tính
thiêng liêng của thẩm phán" (Điều 83). Bên cạnh các quy định tiến bộ đó, Sắc lệnh 51
ngày 17/4/1946 có quy định: "Khi ra phiên tòa… bên bị cùng bên dân sự nguyên cáo có
quyền yêu cầu Tòa án thi hành phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật" (Điều 26).
Đến Sắc lệnh số 69 ngày 18/6/1949, quyền bào chữa cho các đương sự được mở rộng.
Điều 1 Sắc lệnh này quy định: "Trước các Tòa án xử việc hộ và thương mại, trước các

Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình, trừ Tòa án binh tại mặt

ban hành trong đó có một số quy định, giải thích, hướng dẫn các hoạt động xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm như: Thông tư 03-NCPL ngày 30/1/1962 của TANDTC về các trường
hợp xử kín, xử lưu động; Thông tư 112-NCPL ngày 19/8/1972 của TANDTC quy định
về đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa; Thông tư 2421/TC ngày 29/12/1961 của
TANDTC hướng dẫn thực hiện chế độ hội thẩm nhân dân: "Nguyên tắc chung là: Việc
xét xử sơ thẩm phải có hội thẩm nhân dân tham gia. Chỉ trong trường hợp đặc biệt, tòa
án nhân dân mới xử sơ thẩm mà không có hội thẩm nhân dân tham gia. Khi xử sơ thẩm
mà không có hội thẩm nhân dân tham gia thì người ngồi xử chỉ là một thẩm phán" (mục
C phần II); Thông tư 16-TATC ngày 27/5/1974 của TANDTC lần đầu tiên đã khái quát
được trình tự xét xử tại phiên tòa:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ bảo đảm việc xét hỏi, tranh luận và
giữ gìn trật tự tại phiên tòa. Hội đồng xử án có nhiệm vụ quyết định mọi vấn đề về nội
dung cũng như về thủ tục tố tụng trong phiên tòa. Đối với những vấn đề đơn giản không
cần phải thảo luận lâu thì Hội đồng xử án trao đổi và quyết định ngay tại phiên tòa,
nhưng nếu việc trao đổi đòi hỏi mất nhiều thời gian, hoặc trao đổi để nghị án thì Hội đồng
xử án phải vào phòng nghị án.
Văn bản có ý nghĩa quan trọng nhất về phiên tòa sơ thẩm dân sự trong thời kỳ
này là Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông tư số 96
ngày 8/2/1977 của TANDTC. Đây là văn bản quy định các bước tiến hành tại phiên tòa
xét xử như một chỉnh thể, nếu bỏ qua mặt hình thức của nó thì Bản hướng dẫn này được
coi là một chế định quy định đầy đủ trình tự, thủ tục xét xử vụ kiện dân sự tại phiên tòa
sơ thẩm. Theo Bản hướng dẫn này, việc tiến hành phiên tòa về dân sự phải tuần tự theo
các bước sau:
1. Bước chuẩn bị cho việc xét hỏi bao gồm các thủ tục: Khai mạc phiên tòa; hỏi
căn cước của những người được triệu tập và giải quyết vấn đề những người vắng mặt;

phổ biến những quyền của những người tham gia tố tụng và giải quyết những vấn đề
cần thiết để chuẩn bị cho việc xét hỏi; xác định nhiệm vụ của nhân chứng, của giám
định viên, của người phiên dịch.
2. Bước giải quyết nội dung chính của phiên tòa gồm các thủ tục: Xét hỏi; tranh

pháp luật tố tụng dân sự nói riêng" [10, tr. 62]. "Đây là văn bản pháp luật chính thức
điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực tố tụng dân sự, bao hàm một quy trình tố tụng
dân sự khép kín và thống nhất, được áp dụng trong công tác giải quyết, xét xử các vụ
kiện dân sự" [10, tr. 62]. PLTTGQCVADS cơ bản đáp ứng được nhu cầu giải quyết một
khối lượng lớn các tranh chấp dân sự mỗi năm, trong đó các quy định về phiên tòa sơ
thẩm có vai trò nhất định trong hoạt động xét xử của tòa án.
Trình tự, thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm được quy định tại Chương X
PLTTGQCVADS bao gồm 9 điều (từ Điều 48 đến Điều 57). Mặc dù chưa có sự tách
bạch rõ ràng, nhưng các quy định này đã thể hiện được các bước tiến hành phiên tòa
như: Các yêu cầu chung về phiên tòa; thủ tục bắt đầu phiên tòa; thủ tục xét hỏi tại phiên
tòa; tranh luận tại phiên tòa; nghị án và một số thủ tục tiến hành sau phiên tòa. Giai
đoạn này còn có các văn bản tố tụng khác như: PLTTGQCVAKT, PLTTGQCtcLĐ,
PLTTGQCVAHC có các quy định về phiên tòa sơ thẩm. Ngoài ra, trong giai đoạn này
còn có một số văn bản giải thích, hướng dẫn quy định về phiên tòa sơ thẩm như: Thông
tư 09/TTLN ngày 1/10/1990 của TANDTC - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư
pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của PLTTGQCVADS về sự tham gia phiên
tòa của kiểm sát viên; Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán
TADNTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của PLTTGQCVADS về việc cấp trích
lục bản án, quyết định hoặc cấp bản sao bản án, quyết định; Công văn số 309/NCPL
ngày 22/12/1990 của TANDTC giải thích một số vấn đề về thủ tục TTDS về tạm ngưng
việc tiến hành phiên tòa, tạm hoãn việc tuyên án; Công văn số 81/KHXX ngày
21/7/1997 của TANDTC hướng dẫn về quyết định công nhận sự thỏa thuận tại phiên
tòa; Công văn số 43/KHXX ngày 21/4/1998 của TANDTC trả lời về hiệu lực của quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm.

Trích đoạn Sửa chữa, bổ sung biên bản phiên tòa Thực trạng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm Thực tiễn hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm Quán triệt một số quan điểm cải cách tư pháp chỉ đạo trong hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự nói chung và phiên tòa sơ thẩm dân sự nói riêng Bổ sung vào BLTTDS những nội dung sau
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status