LUẬN VĂN: Vấn đề phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay doc - Pdf 15


LUẬN VĂN:
Vấn đề phát huy vai trũ của Công đoàn Việt Nam
trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Đảng ta
chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo điều kiện để các thành
phần kinh tế cùng phát triển nhất là các DNNQD. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
kinh tế ngoài quốc doanh là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời là
chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.
Tình hình phát triển kinh tế nhiều thành phần trong những năm qua cho thấy, khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển

doanh nghiệp này để bảo vệ lợi ích cho người lao động là một nhiệm vụ trọng tâm của tổ
chức Công đoàn, nhằm tập hợp đông đảo giai cấp công nhân nâng cao nhận thức cho
công nhân lao động về đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bảo vệ
lợi ích người lao động, đồng thời xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà ổn định nhằm
phát triển sản xuất kinh doanh tiến tới công bằng, dân chủ văn minh.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn mới của tổ chức Công đoàn
là phải đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, nhanh chóng mở rộng phạm vi, đối
tượng tập hợp đông đảo công nhân lao động trong các thành phần kinh tế vào tổ chức
Công đoàn. Đây là yêu cầu khách quan của tổ chức công đoàn và hoàn toàn phù hợp với
chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Xuất phát từ những điều nói trên, tác giả chọn đề tài: “Vấn đề phát huy vai trũ của
Cụng đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và hy vọng góp phần vào việc nghiên
cứu và đề ra những giải pháp để xây dựng và nâng cao vai trò của Công đoàn trong các
DNNQD. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ những năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay, trước sự chuyển biến của nền kinh tế thế
giới, trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, cơ sở xã hội - chính trị của tổ chức công
đoàn đã có những biến đổi quan trọng. Nhiều nhà lý luận công đoàn trong nước và nước
ngoài đã viết những tác phẩm về chủ đề công đoàn và các giải pháp của nó nhằm tập hợp
ngày càng đông đảo quần chúng để bảo vệ lợi ích của bản thân người lao động trước những
thách thức của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Tôn Trung Phạm một nhà nghiên
cứu về giai cấp công nhân, công đoàn ở Trung Quốc đã có tác phẩm “Kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa và công đoàn” (người dịch sang tiếng Việt: Nguyễn Tiến Chiên, do Ban đối
ngoại Tổng Liên Đoàn Việt Nam, Trường Đại học Công đoàn và nhà xuất bản lao động xuất
bản năm 1997. Hai tác giả người Nga: V.N.Kiselev và V.G Smolkov đã có tác phẩm “Quan
hệ đối tác xã hội ở Nga”, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của công đoàn trong quan hệ đối tác
ba bên: Công đoàn (đại diện cho người lao động), giới chủ và nhà nước. Các tác giả này đã

quốc doanh hiện nay" không trùng lặp với các công trình, bài viết đã được công bố.
Trong đề tài này, tác giả đã kế thừa có chọn lọc các kết quả của những công trình có
trước, tiếp tục bổ sung, phát triển hơn nữa, góp phần làm sáng tỏ vấn đề. Tác giả cũng hy
vọng rằng có thể vận dụng được những kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn để tổ
chức Công đoàn đạt được hiệu quả tốt hơn trong bảo vệ lợi ích của người lao động ở các
DNNQD, để công đoàn xứng đáng là tổ chức chính trị - xã hội của người lao động hiện
nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động ở các
DNNQD, luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác định những giải pháp
thực hiện tốt vai trò của Công đoàn trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn đề cập đến các nội dung cơ
bản sau:
+ Công đoàn Việt Nam và vai trò của nó.

+ Thực trạng vai trò của Công đoàn Việt Nam đặc biệt là vai trò bảo vệ lợi ích của
người lao động ở DNNQD hiện nay.
+ Quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong
việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở DNNQD hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Để hoàn thành mục tiêu đề ra, luận văn đi sâu phân tích
đánh giá Vai trò của công đoàn và phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam ở DNNQD
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và tìm hiểu vai trò của
Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các DNNQD hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để giải quyết nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của Công đoàn.

Chương 1
Một Số Vấn Đề Lý Luận CHUNG
Về VAI Trò Của CÔNG Đoàn TRONG Việc Bảo Vệ
Lợi ích Của Người LAO Động

1.1. Lý luận chung về vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích của người
lao động
1.1.1. Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin về vai trò bảo vệ lợi ích
người lao động của Công đoàn
1.1.1.1. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen
Lý luận về Công đoàn của C.Mác và Ph.Ăngghen gắn liền với học thuyết về giai
cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại chúng ta.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích rất
sâu sắc quá trình phát triển của phong trào công nhân. ở tác phẩm này, hai ông xem xét
các trình độ khác nhau trong sự phát triển của giai cấp vô sản và đã đi đến kết luận rằng,
việc tổ chức những người vô sản thành một giai cấp là yêu cầu khách quan của lịch sử.
Khi nói về sự phát triển của công đoàn trong “Chỉ thị gửi các đại biểu Hội đồng Trung
ương lâm thời”, C.Mác nhận định rằng, hoạt động của công đoàn nhằm cố gắng chặn
đứng cuộc tấn công không ngừng của tư bản vào những người lao động cần được mở
rộng một cách phổ biến bằng cách lập ra những công đoàn trong tất cả các nước và liên
hiệp những trung tâm tổ chức đối với giai cấp công nhân nhằm loại trừ chế độ làm thuê
và quyền lực của tư bản.
C.Mác coi các Công đoàn là một lực lượng hùng hậu chống lại chế độ nô lệ làm thuê,
nêu rõ những nhiệm vụ của Công đoàn khi đã đặt cho mình sứ mệnh giải phóng toàn bộ
giai cấp công nhân, thì các Công đoàn phải rèn luyện năng lực hoạt động một cách tự giác,
ủng hộ mọi phong trào xã hội, phải tự coi mình là những đại biểu của giai cấp công nhân
và chiến đấu cho quyền lợi của giai cấp đó.
Đối với C.Mác, tổ chức Công đoàn xuất hiện là yêu cầu khách quan của phong trào
công nhân trên bước đường đấu tranh chống giai cấp tư sản. Trong bức thư gửi Ph.Bôn-tơ


chức đối với giai cấp tư sản. Nếu công đoàn cần thiết cho cuộc đấu tranh du
kích giữa tư bản và lao động, thì công đoàn lại càng quan trọng hơn với tư cách
là một lực lượng có tổ chức để tiêu diệt bản thân chế độ lao động làm thuê và
quyền lực của tư bản [20, tr.235- 236].
Trong quá trình chuyển biến về chất của phong trào công nhân, Công đoàn trở thành
trường học đấu tranh giai cấp, ở đó công nhân được tập hợp, đoàn kết thành trung tâm
phản kháng đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, chống lại quyền lực của chế độ tư bản
đương thời.
1.1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về vai trò của Công đoàn trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
Tiếp tục phát triển lý thuyết của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra vai trò
trường học của Công đoàn. Theo Lênin, bản chất Công đoàn là trường học CNCS vẫn
không thay đổi ngay trong điều kiện của chính sách kinh tế mới. Song, sự thể hiện vai trò
đó được bổ sung thêm những nội dung mới. Đồng thời cũng có những thay đổi tương ứng
về hình thức và phương pháp công tác của Công đoàn.
Cũng như trước đây, chức năng hoạt động chủ yếu của Công đoàn vẫn là những
phương hướng hoạt động có liên quan đến việc thu hút đông đảo quần chúng lao động
tham gia quản lý sản xuất và các công việc xã hội khác, bồi dưỡng cho quần chúng những
phương pháp quản lý kinh tế - xã hội chủ nghĩa, phổ biến cho công nhân viên chức những
thao tác lao động mới và phương pháp tổ chức quá trình sản xuất, giáo dục cho họ thái độ
lao động mới đối với lao động và tài sản, kỷ luật lao động mới, tinh thần làm chủ xí
nghiệp, tinh thần làm chủ đất nước. Đó chính là những chức năng trường học quản lý,
trường học kinh doanh của Công đoàn.
Điều có ý nghĩa quan trọng là Công đoàn tham gia vào việc xây dựng tất cả cơ quan
Nhà nước và kinh doanh về quản lý kinh tế. Công đoàn có quyền giới thiệu ứng cử viên
của mình vào các chức vụ quản lý hành chính - kinh tế. Có quyền xét duyệt các ứng cử
viên thuộc về tổ chức Đảng và các cơ quan chính quyền. Chức năng Công đoàn là trường
học quản lý, trường học kinh doanh cũng được thực hiện bằng cách đại diện của Công

đoàn tham gia với tư cách là thành viên của các cơ quan tối cao của Nhà nước, các ban

thành giai cấp lãnh đạo, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Do đó, Công đoàn trở thành
trung tâm đoàn kết, tập hợp, giáo dục công nhân, lao động xây dựng xã hội mới - xã hội
XHCN. Theo đó, nhiều nội dung mới về nhiệm vụ, vai trò và chức năng của Công đoàn đó
được Lênin làm sáng tỏ như việc tham gia của Công đoàn vào quản lý kinh tế, văn hoá - xã
hội, quản lý nhà nước. Đặc biệt Người đó cụ thể hoá, phát triển nhiều vấn đề rất mới, chưa
có tiền lệ đặt ra đối với việc bảo vệ lợi ích của người công nhân, người lao động trong quá
trình xây dựng CNXH.
Trong khi đấu tranh với những quan điểm sai lầm về chức năng của Công đoàn
trong tình hình mới, Lênin khẳng định:
Nhà nước công nhân cũng mắc bệnh quan liêu. Và chúng ta buộc phải gắn
cho Nhà nước - biết nói như thế nào nhỉ - cái nhãn hiệu đáng buồn đó. Đó là tình
hình thực tế của bước quá độ. Trong một Nhà nước được hình thành trong những
điều kiện cụ thể như vậy, chẳng lẽ công đoàn lại không có cái gì để bảo vệ hay
sao? [15, tr.52].
Lênin còn chỉ rõ: “Các công đoàn có nhiệm vụ tuyệt đối phải bảo vệ lợi ích của
công nhân, phải góp phần vào phúc lợi vật chất của họ trong phạm vi có thể được, phải
luôn luôn uốn nắn những sai lầm và những việc làm thái quá của các cơ quan kinh tế, khi
những cái đó là do một sự lệch lạc quan liêu chủ nghĩa của bộ máy Nhà nước gây ra” [15,
tr.9]. Theo Lênin, chúng ta cần phải dùng Công đoàn để bảo vệ công nhân khỏi bị sự xâm
phạm của Nhà nước của họ và để công nhân bảo vệ Nhà nước của chúng ta. Và cả hai sự
bảo vệ đó được tiến hành bằng một sự kết hợp độc đáo những biện pháp Nhà nước của
chúng ta với sự thoả thuận của chúng ta, sự “kết hợp” với các công đoàn của chúng ta

[15, tr.53].
Điều đó thể hiện sự vận dụng, phát triển sáng tạo nhiệm vụ, chức năng bảo vệ lợi
ích người lao động trong điều kiện hoàn cảnh mới. Về vấn đề bãi công trong chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, Lênin đã có những chỉ dẫn hết sức quý giá.
Người không những thừa nhận thực tế hoạt động bãi công, mà cũng làm rõ nguyên nhân
của hoạt động này:


những xung đột to lớn trong những xí nghiệp Nhà nước bằng một chính sách
ngừa trước nhằm thực sự bảo vệ lợi ích quần chúng công nhân trong mọi lĩnh
vực, và loại bỏ kịp thời những lý do xung đột [15, tr.123-124].
Có thể nói những luận điểm của Lênin về Công đoàn nói chung và việc bảo vệ lợi
ích của người lao động nói riêng trong công cuộc xây dựng CNXH, đặc biệt là trong thời
kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới, rất phong phú và hàm chứa rất nhiều chỉ dẫn sâu sắc
cho hoạt động bảo vệ lợi ích người lao động của Công đoàn.
Tóm lại, vai trò bảo vệ lợi ích người lao động của tổ chức công đoàn không chỉ có ý
nghĩa về mặt tư tưởng, lý luận mà còn cả về mặt hoạt động thực tiễn. Vai trò đó là sự cụ
thể hoá chức năng của tổ chức công đoàn thông qua hoạt động của mình. Đây chính là
vấn đề khách quan nảy sinh trong quá trình phân công và hợp tác lao động của con người.
Lý luận mác xít khẳng định: “ở đâu không có sự nhất trí về lợi ích thì ở đó sẽ không có
sự nhất trí về mục đích tư tưởng chứ đừng nói gì có sự nhất trí trong hành động” [19,
tr.11].
1.1.2. Quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về bảo vệ lợi ích người
lao động
Tổ chức lao động Quốc tế (gọi tắt là ILO) được thành lập năm 1919, là cơ quan chuyên
môn phụ trách công tác xã hội và lao động của Liên hợp quốc, là tổ chức quốc tế duy nhất có cơ
chế mang tính ba bên trong hệ thống của Liên hợp quốc.
Ngay từ thế kỷ XIX, ý tưởng thành lập tổ chức này đã hình thành trong một số nước
công nghiệp hoá. Vào ngay trước khi kết thúc cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất, người
ta đã nhận thức được rằng, cần đấu tranh với ảnh hưởng có hại do công nghiệp hoá đem
lại, cần phải có những nỗ lực chung mang tính quốc tế. Nếu như người lao động không
nhận được đãi ngộ công bằng về xã hội và kinh tế, thì sẽ không thể nói đến hoà bình thế
giới thực sự.
Sau khi đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc, các nước tham chiến đã họp hội nghị
hoà bình tại Pari vào đầu năm 1919, ký kết hiệp ước hoà bình. Tại hội nghị đã thành lập hội
đồng lập pháp lao động do 15 nước cấu thành, đây là tiền thân của Tổ chức lao động quốc
tế. Hội đồng đã soạn thảo ra 9 nguyên tắc liên quan tới vấn đề lao động và “Dự thảo


được đưa ra như vậy tương đối chiếu cố đến các bên liên quan, tiện cho đưa ra thực
hiện.
1.1.2.1. Tiêu chuẩn lao động quốc tế là xác lập và bảo đảm quyền lợi công nhân
trên phạm vị thế giới
Quyền lợi công nhân còn gọi là quyền lợi lao động, là quyền lợi xã hội liên quan tới
lao động mà người lao động trong quan hệ lao động hiện đại mà pháp luật quy định được
hưởng đồng thời với thực hiện nghĩa vụ lao động.
Trong “Tuyên ngôn Floriđa” đã xác định: “Toàn nhân loại không phân biệt chủng tộc,
tín ngưỡng và giới tính đều có quyền mưu cầu phúc lợi vật chất và phát triển tinh thần
trong điều kiện tự do và tôn nghiêm, bảo đảm kinh tế và bình đẳng cơ hội”. Vì vậy, Tổ
chức lao động quốc tế cần phải thông qua phương thức đề ra và thực hiện tiêu chuẩn lao
động quốc tế để xác lập và bảo đảm quyền lợi công nhân trên phạm vi thế giới, cải thiện
điều kiện lao động của công nhân các nước, nhằm đạt tới mục tiêu bảo vệ CNXH và hoà
bình thế giới.
Là một thứ nhân quyền cơ bản, quyền tự do thành lập tổ chức chiếm vị trí quan trọng
trong lập pháp nhân quyền quốc tế. Đại hội lao động quốc tế khoá 31 năm 1948 đã thông qua
“Công ước tự do thành lập tổ chức và bảo đảm quyền lợi tổ chức” (số 87), công ước này lấy
quyền lợi công dân “tự do thành lập tổ chức” trong hiến pháp nhà nước dân chủ làm căn cứ
và xuất phát điểm, quy định cụ thể những nội dung và yêu cầu của quyền kết thành tổ chức.
Đại hội lao động quốc tế khoá 32 năm 1949 lại thông qua “Công ước quyền tổ chức và
quyền đàm phán tập thể” (số 98), nó có thể được coi là sự bổ sung đối với công ước số 87.
Hai công ước này cấu thành tiêu chuẩn lao động quốc tế hạt nhân ở các mặt quyền tự do
thành lập tổ chức và quyền đàm phán tổ chức”.
Công ước số 87 có mấy điểm quan trọng như sau: một là, về tự do thành lập tổ
chức: “Tất cả công nhân và chủ thuê, đều cần có quyền thành lập tổ chức mà bản thân họ
lựa chọn một cách không có bất kỳ sự phân biệt nào, và chỉ dựa vào chương trình của tổ
chức liên quan đưa vào tổ chức mà bản thân họ lựa chọn, chứ không cần phải được phê
chuẩn trước”. Hai là, “Tổ chức công nhân và tổ chức chủ thuê đều có quyền đề ra chương
trình và quy định của họ, bầu ra kế hoạch công tác của mình một cách tự do đầy đủ;


hiệu lao động trẻ em và từng bước nâng cao độ tuổi làm việc thấp nhất, theo quy định của
công ước, độ tuổi thấp nhất cho phép làm việc không được thấp hơn độ tuổi hoàn thành
giáo dục nghĩa vụ, và trong bất cứ trường hợp nào không được thấp hơn 15 tuổi; nhưng
nếu như cơ sở kinh tế và giáo dục của nước thành viên không đủ phát triển, thì phải bước
đầu quy định độ tuổi thấp nhất là 14 tuổi sau khi đã bàn bạc với tổ chức chủ thuê và tổ
chức công nhân hữu quan.
Tổ chức lao động quốc tế đã tính đến, hoàn toàn xoá bỏ lao động trẻ em là một
nhiệm vụ lâu dài và khó khăn, cần phải thông qua tiêu chuẩn lao động mới, nhằm bổ sung
công ước số 138 năm 1973 vẫn là tiêu chuẩn lao động cơ bản về mặt lao động trẻ em, coi
cấm và loại bỏ lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất là mục tiêu ưu tiên chính của hành
động quốc gia và quốc tế. Vì vậy, năm 1999 đã thông qua “Công ước lao động trẻ em
hình thức tồi tệ nhất”.
Công ước này quy định, đối với công ước này mà nói, từ “trẻ em” thích hợp cho tất
cả những người tuổi dưới 18. Cái gọi là lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất, chủ yếu bao
gồm mấy loại hình dưới đây: Chế độ nô lệ các loại hình thức hoặc cách làm tương tự chế
độ nô lệ, như buôn bán trẻ em, lao dịch trả nợ và nô dịch, cũng như lao động cưỡng bức
hoặc cưỡng chế, bao gồm chiêu mộ trẻ em cưỡng bức hoặc cưỡng chế dùng vào xung đột
vũ trang. Sử dụng thu nhận hoặc cung cấp trẻ em bán dâm, sản xuất các sản phẩm sex hoặc
tiến hành biểu diễn sex. Sử dụng, thu nhận hoặc cung cấp trẻ em tiến hành hoạt động bất
hợp pháp, đặc biệt là sản xuất và buôn bán các loại chất độc được xác định trong các công
ước quốc tế liên quan. Nhưng công việc mà tính chất của nó hoặc môi trường làm việc
trong đó có thể gây tổn hại tới sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức trẻ em, như: công việc khiến
cho trẻ em bị ngược đãi về thể xác, tâm lý hoặc tình dục; công việc ở dưới giếng, dưới
nước, nơi cao có nguy hiểm hoặc trong không gian hẹp; công việc sử dụng máy móc, thiết
bị và công cụ nguy hiểm, hoặc là công việc vận chuyển vật nặng; làm việc trong môi
trường không lành mạnh; làm việc trong điều kiện khó khăn đặc biệt. Công ước quy định,
các nước thành viên cần áp dụng bước đi thích hợp, thông qua tăng cường hợp tác hoặc
viện trợ quốc tế, bao gồm khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch loại bỏ nghèo

khó và phổ cập giáo dục, thực hiện chế tài cần thiết nhằm bảo đảm thực thi hữu hiệu các

đề ở bình diện xã hội của toàn cầu hoá kinh tế, áp dụng một loạt biện pháp ứng phó, và
lần lượt đề ra các công ước lao động quốc tế và kiến nghị thư mới. Tổ chức lao động quốc
tế cho rằng, ba trụ cột chính sách xã hội ứng phó với thách thức của toàn cầu hoá kinh tế
và bảo đảm phát triển bền vững là: giáo dục và đào tạo thích ứng với yêu cầu toàn cầu
hoá, chính sách bảo vệ xã hội và chính sách quan hệ chủ thợ hợp lý.
Theo nhận thức chung của “Lao động thể diện”, địa vị quan trọng của việc làm là không
còn nghi ngờ gì nữa. Các tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề việc làm vừa bao
gồm chính sách việc làm và khai thác nguồn nhân lực, thành lập cơ quan giới thiệu việc làm
miễn phí, tổ chức chỉ đạo nghề nghiệp và đào tạo nghề, hoàn thiện hệ thống dịch vụ việc làm;
cũng bao gồm điều kiện việc làm thông thường, như quy định tiền lương thấp nhất, bảo đảm
tiền lương, quy định thời gian làm việc, hạn chế thời gian làm việc ban đêm, thời gian nghỉ
ngơi mỗi tuần, nghỉ phép năm vẫn hưởng lương và học tập thoát ly khỏi sản xuất vẫn hưởng
lương Năm 1997, Đại hội lao động quốc tế đó thông qua “Công ước cơ quan việc làm tư
nhân” (số 181), khẳng định vai trò mà các cơ quan dịch vụ việc làm này phát huy trong mặt
chính sách thị trường sức lao động. Năm 1998, đã thông qua “Kiến nghị thư kích thích tạo điều
kiện việc làm thông thường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ” (số 189), nhấn mạnh tầm quan
trọng của các doanh nghiệp này trong các mặt như tạo việc làm, thu hút nhóm người yếu thế
tham gia vào hoạt động kinh tế. Tháng 6 năm 2004, Đại hội lao động quốc tế lại thông qua
“Kiến nghị thư khai thác nguồn nhân lực: giáo dục, đào tạo và học tập suốt đời” (số 195). Kiến
nghị thư này đó đưa vào tư duy mới học tập suốt đời, đưa ra cần làm rõ trách nhiệm của chính
phủ, doanh nghiệp, cá nhân người lao động và các bên xã hội trong khai thác và đào tạo nguồn
nhân lực.
Tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề bảo vệ xã hội, một là an toàn và vệ
sinh của người lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp, như đề ra và thực hiện chính sách
quốc gia an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp công nhân, xây dựng cơ sở y tế nghề nghiệp
tương ứng, đề phòng các sự cố công nghiệp lớn, đề ra tiêu chuẩn chuyên nghiệp an toàn
và vệ sinh nghề nghiệp tương ứng đối với một số môi trường làm việc, bộ phận ngành
nghề dễ xảy ra sự cố an toàn lao động và có độc hại; hai là bảo đảm xã hội của người lao

động khi sinh lão bệnh tử và bị thương tật, tàn phế, như bảo hiểm y tế, bảo hiểm dưỡng

Việt Nam gia nhập ILO từ năm 1980. Trải qua 29 năm hợp tác, mối quan hệ Việt
Nam - ILO ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực, nhưng đến năm 1982 vì một
số lý do kỹ thuật Việt Nam đã rút khỏi ILO và đến năm 1993 Việt Nam tái gia nhập ILO.
Từ khi tham gia trở lại, Việt Nam tích cực hoạt động trong ILO, tham dự đầy đủ các
Hội nghị Lao động Quốc tế hàng năm, thực hiện các nghĩa vụ của nước thành viên. Nói
chung, đối với các công ước Lao động Quốc tế đã tham gia phê chuẩn, Việt Nam luôn
thực hiện một cách nghiêm túc, có sự phối hợp ba bên giữa Chính phủ, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam (tổ chức đại diện cho người lao động) và Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động) kiểm điểm đánh
giá việc thi hành.
Theo cơ chế ba bên, Công đoàn Việt Nam ngày càng tham gia tích cực trong hoạt
động của ILO. Điều đó được thể hiện cụ thể trong hoạt động đối nội và đối ngoại của
Công đoàn Việt Nam. Trong khuôn khổ hợp tác với ILO, Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam đã tích cực tham gia xây dựng luật pháp của Việt Nam; kiểm tra giám sát việc áp
dụng luật; thông qua việc cử cán bộ ra nước ngoài trao đổi kinh nghiệm, học tập, nghiên
cứu, tổ chức ở trong nước các lớp tập huấn, hội thảo, hội nghị, tuyên truyền, đào tạo cán
bộ công đoàn về nâng cao kỹ năng, phương pháp hoạt động, nội dung hoạt động, các tiêu
chuẩn lao động quốc tế, bộ quy tắc ứng xử liên quan đến lao động, quan hệ lao động, hoạt
động công đoàn trong cơ chế thị trường, thương lượng ký kết thảo ước lao động tập thể,
an toàn vệ sinh lao động, bình đẳng giới, chống lao động trẻ em, công tác tư vấn pháp luật
trong công đoàn, tạo mối quan hệ hài hoà giữa chủ doanh nghiệp và người lao động,
doanh nghiệp phát triển, người lao động được đảm bảo về công ăn việc làm, về quyền lợi,
nhân phẩm, hàng hoá chất lượng mang tính cạnh tranh cao hơn, nền kinh tế phát triển
lành mạnh, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hoà nhập kinh tế quốc tế và khu vực tốt
hơn.
Ngày 17/2/2003, Văn phòng ILO tại Hà Nội đã chính thức khai trương. Mục tiêu
hoạt động của ILO tại Việt Nam luôn gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của

chính phủ và phù hợp với bốn mục tiêu chiến lược về chương trình việc làm của ILO.
Các hỗ trợ của ILO tập trung giúp Chính phủ hoạch định chiến lược và chính sách về lao

ái Quốc được các hội viên Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội - một tổ chức
tiền thân của Đảng Cộng sản, truyền bá rộng rãi trong phong trào công nhân, nhiều tổ
chức Công hội bí mật được thành lập. Đặc biệt, từ năm 1928, Thanh niên cách mạng
đồng chí Hội phát động phong trào “Vô sản hoá” thì phong trào đấu tranh của công nhân
Việt Nam càng sôi nổi, đã thúc đẩy sự phát triển của tổ chức Công hội lên một bước mới.
Để đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động công nhân và tăng cường sức mạnh cho tổ
chức Công hội. Ngay sau khi thành lập trước sự phát triển của phong trào công nhân và
nhu cầu tập hợp lực lượng, Đông Dương cộng sản đảng đã triệu tập đại hội thành lập Tổng
công hội đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28 tháng 7 năm 1929, tại số nhà 15 Hàng Nón - Hà Nội. Đại
hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 6 người do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh - uỷ viên Ban chấp
hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng, phụ trách công tác vận động công
nhân của Đảng đứng đầu. Trong Đại hội đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã trình bày báo cáo,
trong đó nhấn mạnh đặc điểm tình hình phong trào công nhân nước ta và đề ra những
nhiệm vụ thiết yếu của giai cấp công nhân, công hội trong thời gian sắp tới.
Sự ra đời của Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ là kết quả tất yếu của sự phát triển của
phong trào công nhân với sự truyền bá lý luận cách mạng của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
và các đảng viên cộng sản vào phong trào công nhân nước ta. Sự ra đời của tổ chức này
là một mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân ở nước ta. Từ đây, giai cấp
công nhân Việt Nam có tổ chức đại diện cho quyền lợi của mình, Công đoàn Việt Nam
đã thực sự bước lên vũ đài lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc.
Từ sau hội nghị này, Tổng Công hội Đỏ Bắc kỳ, một tổ chức được Đảng Cộng sản
thành lập, đã trở thành tổ chức Công đoàn cách mạng, tiêu biểu của giai cấp công nhân
Việt Nam. Nó là kết quả tất yếu của phong trào công nhân vận động với sự truyền bá lý
luận Công đoàn cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và các đảng viện cộng sản vào
phong trào Công đoàn nước ta.

Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ đã trở thành tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam.
Ngày thành lập tổ chức này ngày 28 tháng 7 năm 1929 đã trở thành ngày thành lập Công
đoàn Việt Nam.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status