LUẬN VĂN: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc - Pdf 15



LUẬN VĂN:

Bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóacủa lễ hội cổ truyền ở tỉnh
Vĩnh Phúc

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Lễ hội cổ truyền là một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần, bắt nguồn và phát
triển từ thực tiễn hoạt động của đời sống xã hội, sự giao lưu, tiếp biến văn hoá của cộng
đồng. Lễ hội cổ truyền chứa đựng tất cả những khát vọng, những ước muốn tâm linh vừa

biểu, tồn tại trong những tiểu vùng văn hoá cụ thể.
Quá trình nghiên cứu lễ hội ở Vĩnh Phúc sẽ vận dụng những quan điểm, phương
pháp nghiên cứu văn hoá học vào một trường hợp tiểu vùng văn hoá. Kết quả nghiên cứu
của đề tài sẽ góp phần bổ sung vào lĩnh vực học thuật, làm phong phú thêm kho tàng lý
luận văn hoá dân gian trên phương diện lễ hội cổ truyền, góp phần làm căn cứ khoa học
cho việc bảo tồn, làm giàu và phát huy giá trị văn hoá lễ hội của nhân dân Vĩnh Phúc.
Xuất phát từ yêu cầu trên, tác giả luận văn lựa chọn đề tài “Bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá của lễ hội cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc” nhằm vận dụng lý luận văn hoá và
các phương pháp nghiên cứu văn hoá vào thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu một số thành tố cơ bản của lễ hội cổ truyền, những giá trị văn hoá của lễ
hội cổ truyền.
- Nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền.
Hướng tới một cái nhìn tổng thể về lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phúc.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp, những kiến nghị mong muốn góp phần
bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện
nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống lễ hội cổ truyền, trong đó tập trung làm rõ một số
lễ hội tiêu biểu đang diễn ra hiện nay trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tới lễ hội cổ truyền trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc từ năm 1997 đến nay (mốc thời gian tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá để
nghiên cứu lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phúc.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp logic và lịch sử
+ Phương pháp liên ngành và chuyên ngành
+ Phương pháp điều tra xã hội học

liên hệ của các lễ hội truyền thống với xã hội đương đại để có thể đưa ra những giải pháp
quản lý lễ hội.
- Nhóm công trình theo khuynh hướng nghiên cứu lễ hội ở bình diện tổng thể:
Khuynh hướng này chủ yếu nhìn nhận các vấn đề giá trị của lễ hội truyền thống theo
phương pháp định tính. Một trong những tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng này là GS.
Đinh Gia Khánh trong các công trình ý nghĩa xã hội và văn hoá của hội lễ dân gian [7]
và Văn hoá dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam [11]; Tập thể các
tác giả của Viện Nghiên cứu Văn hoá (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) xuất bản công
trình Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ do PGS. Lê Trung Vũ (chủ biên) [41]….

Đáng lưu ý là năm 1993, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (nay là Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam) tổ chức một hội thảo khoa học quốc tế về Lễ hội truyền thống
trong đời sống xã hội hiện đại [10]. Các nhà nghiên cứu tham gia hội thảo này đã đóng
góp nhiều ý kiến về vai trò của lễ hội truyền thống trong xã hội đương đại, trong đó tác
giả Vũ Ngọc Khánh cho rằng lễ hội không phải là một hiện tượng văn hoá bất biến mà nó
có sự đổi thay qua thời gian. Sự biến đổi và tiếp tục của các lễ hội chính là sự hài hoà của
nó đối với không gian và thời gian nhất định.
Thừa nhận sự trường tồn của lễ hội cổ truyền, các nhà nghiên cứu không quan niệm lễ
hội là sự luyến tiếc quá khứ, để lui vào huyền thoại, cô lập con người. Lễ hội cũng không
phải tồn tại để con người quay ra tìm sự huyền bí với những cảm giác bồng bềnh ngây ngất
nhằm mục đích thoát ly cuộc sống. Trong lễ hội có sự tưởng tượng về sự hiện diện các thần
linh, các bí tích, nhưng không phải là để tấn công khoa học, để đi ngược chiều với những xã
hội mới như xã hội hậu công nghiệp.
Bên cạnh đó, Đinh Gia Khánh còn nhận xét về các mặt tích cực và tiêu cực của sự
phát triển trở lại của các lễ hội truyền thống. Tác giả nêu ra một số quan điểm phổ biến
khi đánh giá về sự trở lại của lễ hội như sau:
1/ Những ý kiến không tán thành với sự trở lại này vì cho rằng điều đó gây lãng phí
tiền của, thời gian.
2/ Những ý kiến cho rằng sự trở lại của lễ hội gây ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội
do nó liên quan đến các hiện tượng mê tín, dị đoan.

tìm lại được môi trường phục sinh và tôn tạo. Hàng loạt các nghề thủ công - mỹ
nghệ, ẩm thực truyền thống… được củng cố và phát triển tạo ra những cơ hội
việc làm và thu nhập cho không ít lao động, góp phần bảo vệ di sản công nghệ
dân gian đang có cơ trở thành hàng hoá có giá trị trong xã hội hiện đại” [16,
tr.44]
Các tác giả nhấn mạnh rằng lễ hội đang trở thành một sản phẩm của ngành du lịch, có ý
nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế ở nhiều địa phương [16, tr.44].
6.2. Quá trình nghiên cứu lễ hội cổ truyền ở tỉnh Vĩnh Phúc
Trong nhiều năm qua đã có đông đảo nhà nghiên cứu trung ương và địa phương
nghiên cứu, tìm hiểu, làm rõ về lễ hội và lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phúc. Song chủ yếu
những bài viết nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở giới thiệu hoặc miêu tả dưới góc độ đơn lẻ
từng lễ hội hoặc tập trung vào một số lễ hội tiêu biểu của tỉnh, như lễ hội Tây Thiên (huyện
Tam Đảo), lễ hội Đúc Bụt (huyện Tam Dương), lễ hội Cướp Phết, lễ hội Chọi Trâu (huyện
Lập Thạch), lễ hội Rước Nước (huyện Vĩnh Tường).
Gần đây (từ năm 1997 tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập đến nay), Sở Văn hoá Thể thao và
Du lịch Vĩnh Phúc đã có một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến lễ hội cổ
truyền ở tỉnh và được xuất bản thành sách. Cụ thể như sau:
Công trình “Danh nhân Vĩnh Phúc” (1999) của Lê Kim Thuyên đã giới thiệu khá
đầy đủ về các danh nhân ở Vĩnh Phúc từ thời Hai Bà Trưng cho đến trước thời đại Hồ
Chí Minh, nơi thờ tự và tổ chức lễ hội của các danh nhân (nếu có).
Tại công trình “Địa chí Vĩnh Phúc (sơ thảo)” (2000), Lê Kim Thuyên đã đề cập về
vùng đất và con người Vĩnh Phúc nói chung và khái lược lễ hội cổ truyền nói riêng.

Trong sách “Văn hoá các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc” (2005), tác giả Lâm Quý giới thiệu
văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, tập trung ba dân tộc:
Dao, Cao Lan và Sán Dìu, trong đó có đề cập đến lễ hội của các dân tộc.
Lê Kim Thuyên còn nghiên cứu khái lược lễ hội Vĩnh Phúc dưới góc độ giới thiệu một lễ
hội cụ thể và thành tố của lễ hội, trong công trình “Lễ hội Vĩnh Phúc (2006)”.
Với cuốn sách “Văn hoá dân gian Vĩnh Phúc”(2007), Bùi Đằng Sinh, giới thiệu về
các loại hình văn hoá dân gian trên địa bàn Vĩnh Phúc, trong đó khái lược lễ hội cổ

lãnh thổ thống nhất, cùng đóng góp phong tục tập quán măng bản sắc riêng của mỗi vùng
miền, dân tộc, tôn giáo cho nền văn hoá của dân tộc. Trong đó lễ hội là yếu tố vừa đặc
trưng cho mỗi dân tộc, vừa làm cho văn hoá đất nước đặc sắc hơn.
Cho đến thời điểm hiện nay, khái niệm lễ hội vẫn còn nhiều cách hiểu và lý giải
khác nhau trong giới nghiên cứu. Tựu trung lại trên thực tế đã xuất hiện một số ý kiến sau
đây: có quan niệm chia tách lễ và hội thành hai thành tố khác nhau trong cấu trúc lễ hội
dựa trên thực tế có những sinh hoạt văn hoá dân gian có lễ mà không có hội hoặc ngược
lại. Theo Bùi Thiết thì “Lễ là các hoạt động đạt tới trình độ nghi lễ, hội là các hoạt nghi lễ
đạt trình độ cao hơn, trong đó có các hoạt động văn hoá truyền thống” [26]; khác với
quan điểm trên, nhà nghiên cứu Thu Linh cho rằng:
Lễ (cuộc lễ) phản ánh những sự kiện đặc biệt, về mặt hình thức lệ trong các dịp
này trở thành hệ thống những nghi thức có tính chất phổ biến được quy định một cách
nghiêm ngặt nhiều khi đạt đến trình độ một “ cải diễn hoá” cùng với không khí trang
nghiêm đóng vai trò chủ đạo. Đây chính là điểm giao thoa giữa lễ với hội, và có lẽ cũng
vì vậy người ta thường nhập hai từ lễ hội [15, tr.27].
Theo Nguyễn Quang Lê, thì bất kỳ một lễ hội nào cũng bao gồm hai hệ thống đan
quện và giao thoa với nhau:
1- Hệ thống lễ: Bao gồm các nghi lễ của tín ngưỡng dân gian và tôn giáo
cùng với các lễ vật được sử dụng làm đồ lễ mang tính linh thiêng, được chuẩn
bị rất chu đáo và nghiêm túc. Thông qua các nghi lễ này con người được giao
cảm với thế giới siêu nhiên là các thần thánh (các nhiên thần và nhân thần),
do chính con người tưởng tượng ra và họ cầu mong các thần thánh bảo trợ và
có tác động tốt đẹp đến tương lai cuộc sống tốt đẹp của mình.
2- Hệ thống hội: Bao gồm các trò vui, trò diễn và các kiểu diễn xướng
dân gian, cụ thể là các trò vui chơi giải trí, các đám rước và ca múa dân
gian.v.v- chúng đều mang tính vui nhộn, hài hước, song đôi khi chưa thể tách
ra khỏi việc thờ cúng [13, tr.5-9].

Giáo sư Đinh Gia Khánh quan niệm: “ đặc điểm cơ bản của văn hoá dân gian
(trong đó có lễ hội) là tính nguyên hợp tức nói rằng quan hệ nghệ thuật ấy người ta

trong thế giới tự nhiên [23, tr.54- 56].
Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thức như sau:

Lễ: là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người
đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống
mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.
Hội: là tập hợp các trò diễn có tính nghi thức, các cuộc vui chơi, giải trí tại một
thời điểm nhất định, thường trong khuôn viên các công trình tôn giáo hay ở sát chúng,
có đông người tham gia, là đời sống văn hoá hàng ngày và một phần đời của cá nhân và
cả cộng đồng, nhân kỷ niệm một sự kiện quan trọng đối với một cộng đồng xã hội.
Lễ hội là sản phẩm của xã hội quá khứ, được truyền lại tới ngày nay và nó được
người dân, cộng đồng tiếp nhận và thực hành trong đời sống sinh hoạt văn hoá, tín
ngưỡng.
1.1.2. Lễ hội cổ truyền
Lễ hội cổ truyền là một loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian tổng hợp, vừa độc đáo,
vừa phong phú đa dạng của dân tộc Việt Nam, vốn có nguồn gốc phát sinh và phát triển
từ rất lâu đời trong lòng lịch sử văn hoá nước nhà. Có thể coi lễ hội cổ truyền là hình ảnh
thu nhỏ của nền văn hoá dân gian cổ truyền dân tộc. Bởi lẽ, trong lễ hội cổ truyền bao
hàm hầu như đầy đủ các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian, như: về văn học dân gian,
có truyền thuyết, thần thoại, thần tích, thần phả, văn tế, văn bia, hoành phi câu đối, ca dao
hò vè ; về nghệ thuật biểu diễn dân gian, có diễn xướng, sân khấu dân gian, các làn điệu
dân ca, dân vũ, dân nhạc ; về tôn giáo có phong tục và tín ngưỡng dân gian gồm, các
nghi lễ, nghi thức, trò chơi, trò diễn, trò chơi dân gian, tục lệ, đối tượng thờ cúng, đức tin
và kỵ hèm dân gian Do vậy, lễ hội cổ truyền không chỉ là một hiện tượng văn hoá dân
gian, mà còn là một hiện tượng lịch sử xã hội. Nó phản ánh khá trung thực và rõ nét cốt
cách, bản lĩnh và bản sắc dân tộc, cùng với tâm linh, nguyện vọng của nhân dân trong
suốt thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội cổ truyền được ra đời, bảo tồn và phát huy trong lòng lịch sử- văn hoá dân
tộc, nó phản ánh khá đầy đủ và rất sinh động đời sống văn hoá- xã hội mà đã trải qua.
Nhiều yếu tố văn hoá tinh thần được lễ hội cổ truyền bảo lưu và truyền tụng từ đời này

Chúng tôi sử dụng khái niệm lễ hội cổ truyền theo quan điểm của GS.Ngô Đức
Thịnh, cho rằng lễ hội cổ truyền là:
1/ “Một hình thức diễn xướng dân gian bao gồm nhiều hình thức diễn xướng nhỏ,
kết hợp hữu cơ với nhau tạo thành tổng thể diễn xướng lễ hội”;
2/ “Là một hình thức diễn xướng tâm linh” không còn là thế giới hiện thực mà đã
vươn lên thế giới biểu tượng linh thiêng. “Nó tái hiện lại lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội
trong một “thời điểm mạnh”, thời điểm có giá trị đặc biệt, thời điểm thiêng, khác với
thời gian thường ngày”;
3/ “Diễn xướng lễ hội cổ truyền đạt tới hiệu quả xã hội nhiều mặt, nó tạo nên và
biểu trưng cho sức mạnh cố kết cộng đồng, nó là niềm cộng cảm và cộng mệnh của

cng ng tho món c vng vn ti s ho ng gia con ngi vi thiờn nhiờn, vi
ci ngun [29, tr.17-22,]
Bờn cnh ú, l hi c truyn l mt hin tng vn hoỏ dõn gian tng th, c
hỡnh thnh trờn c s mt nghi l, tớn ngng no ú. Cỏc l hi c truyn l sinh hot
vn hoỏ tin hnh theo nh k, mang tớnh cng ng (thng l cng ng lng).
Ngoi ra, l hi l mt di sn vn hoỏ, mt sn phm ca lch s, tn ti v vn hnh
trong bi cnh xó hi hin ti.
1.1.3. Giỏ tr vn hoỏ ca l hi c truyn
Nghiờn cu giỏ tr vn hoỏ ca l hi c truyn, cng chớnh l tỡm v l hi c
truyn trong t cỏch l mt di sn vn hoỏ quan trng.
Khỏi nim di sn c hiu mt ngha n gin nht l ti sn ca th h trc
li cho th h sau. Hay ch chung cho cỏc ti sn vn hoỏ nh vn hc dõn gian, cỏc
cụng trỡnh kin trỳc, cỏc tỏc phm iờu khc, cỏc tỏc phm vn hc m cỏc th h trc
li cho th h sau [6, tr.667].
Lut Di sn vn hoỏ ca Nc Cng ho Xó hi Ch ngha Vit Nam xỏc nh di
sn l sn phm tinh thn, vt cht cú giỏ tr lch s, vn hoỏ, khoa hc, c lu truyn
t th h ny qua th h khỏc [17, tr.12].
Khỏi nim di sn l mt khỏi nim tin trin, cú ngha l nú thay i theo thi gian
v khụng gian. Gi õy khỏi nim di sn khụng hon ton ng nht vi khỏi nim ti sn

hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có
vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nớc và giữ nớc của nhân
dân ta".
Di sản văn hóa tồn tại dới hai dạng: Di sản văn hóa vật
thể và di sản văn hóa phi vật thể.
Tại chơng I điều 4 của Luật Di sản văn hóa ghi nh
sau:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá
trị lịch sử, văn hóa khoa học, đợc lu giữ bằng trí nhớ,
chữ viết, đợc lu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề,
trình diễn và các hình thức lu giữ, lu truyền khác, bao
gồm tiếng nói, chữ viết tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học, ngữ văn truyền miệng, diễn xớng dân gian, lối sống,
nếp sống, lễ hội, bí quyết và nghề thủ công truyền thống,
tri thức về y, dợc học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về
trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian
khác.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị
lịch sử văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử văn hóa,
danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

Di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể là
những hình thức tồn tại của di sản văn hoá. Nếu gọi di sản
văn hóa vật thể là gơng mặt lịch sử, là nhân chứng của các
thời đại, thì di sản văn hóa phi vật thể là linh hồn, là
tinh anh, hun đúc những giá trị cao nhất của dân tộc. Các
di sản văn hóa vật thể luôn luôn chứa đựng trong mình những
giá trị vô hình, nơi con ngời gửi gắm đức tin và tôn thờ
một đấng thiêng liêng nào đó, là không gian văn hóa cho

Chính phủ ban hành Nghị định số 519 TTg ngày 29/10/1957
về việc bảo tồn di tích, di vật lịch sử và danh lam thắng
cảnh. Điều 1 của Nghị định nói trên xác định:
Tất cả những bất động sản và động sản có một giá trị
lịch sử hay nghệ thuật (kể cả bất động sản và động sản còn
nằm ở dới đất hay dới nớc) và những danh lam thắng cảnh
ở trên lãnh thổ nớc Việt Nam, bất cứ là thuộc quyền sở hữu
của Nhà nớc, một đơn vị hành chính, một cơ quan, một đoàn
thể, hoặc một t nhân, từ nay đều đặt dới chế độ bảo vệ
của Nhà nớc quy định trong Nghị định này.
Khi đất nớc ta hoàn toàn thống nhất, chủ tịch Hội đồng
Nhà nớc đã ký Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử
- văn hóa và danh lam thắng cảnh (04041984). Mời tám năm
sau (2001), Nhà nớc Việt Nam đã chính thức ban hành Luật
Di sản văn hóa, đây đợc coi là một bớc tiến trên quá
trình hoàn thiện chính sách văn hóa vì sự phát triển của
đất nớc.
Trong Luật Di sản văn hóa này, cả hai hình thái văn hóa
đợc chứa đựng trong ký ức văn hóa của dân tộc: Di sản văn
hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể đều đợc đề cập
đến với t cách là đối tợng pháp lý chủ yếu của luật. Luật
pháp của nhà nớc không chỉ nâng cao nhận thức mà còn trao
cho mọi công dân một công cụ pháp lý để điều chỉnh các hoạt
động xã hội, để nhà nớc cùng các tổ chức, cá nhân có thể
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc vào đời
sống hiện tại.
Đồng thời luật cũng quy định rất cụ thể việc kiểm kê,
su tầm vốn văn hóa truyền thống (bao gồm văn hoá bác học
và văn hoá dân gian) của ngời Việt và các dân tộc ngời
thiểu số; bảo tồn các làng nghề truyền thống, các tri thức

Về cơ bản, có thể khẳng định rằng Luật Di sản văn hoá
đợc thông qua tại kỳ họp lần thứ 9 Quốc hội khoá 9, tháng
6 năm 2001 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01 01 2002
là cơ sở pháp lý quan trọng để đẩy mạnh việc đổi mới các
hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá ở
Việt Nam, thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi những
đờng lối, chủ trơng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới

đất nớc nói chung, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng, đồng thời
đóng góp vào kho tàng di sản văn hoá của thế giới.
Bên cạnh hiệu lực của pháp luật nhà nớc về bảo vệ di
sản văn hoá, nhận thức của xã hội trong thời gian gần đây
cũng có nhiều thay đổi. Đến nay di sản văn hoá không chỉ
đợc coi là tài sản có giá trị giáo dục truyền thống, mà
còn là một nguồn lực to lớn góp phần phát triển kinh tế, xã
hội của đất nớc. Do đó di sản văn hoá đã trở thành một
lĩnh vực đợc quan tâm đặc biệt, huy động đợc nhiều đóng
góp của nhân dân và đã đạt đợc nhiều kết quả quan trọng.
Nhiều văn bản quản lý nhà nớc về di sản văn hoá đã đợc
ban hành, nhiều đề tài khoa học, dự án bảo tồn các di sản
văn hoá thuộc nhiều lĩnh vực đợc thực hiện, nhiều loại
hình văn hoá, nghệ thuật truyền thống đợc khôi phục, bảo
tồn khai thác và phát huy.
Đến nay đã có rất nhiều dự án nghiên cứu, su tầm và một
khối lợng lớn phim, ảnh, băng đĩa hình, đầu sách về di sản
văn hoá phi vật thể đợc thực hiện. Nổi lên là việc su tầm
hàng trăm sử thi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên với
kinh phí lên tới hàng chục tỉ đồng. Nhiều làng nghề thủ
công truyền thống đợc phát huy và bớc đầu có vị trí trong

gian vn hoỏ cú liờn quan m cỏc cng ng, cỏc nhúm v mt s trng hp l cỏc cỏ
nhõn, cụng nhn l mt phn di sn vn hoỏ ca h. c chuyn giao t th h ny sang
th h khỏc, di sn vn hoỏ phi vt th c cỏc cng ng v cỏc nhúm khụng ngng tỏi
to thớch nghi vi mụi trng v mi quan h qua li gia cng ng vi t nhiờn v
lch s ca h, ng thi hỡnh thnh trong h mt ý thc v bn sc v s k tc, qua ú
khớch l thờm s tụn trng i vi s a dng vn hoỏ v tớnh sỏng to ca con ngi [35,
tr.144].
Trong cỏc loi hỡnh di sn vn hoỏ phi vt th, l hi truyn thng l mt loi hỡnh
tiờu biu. L hi truyn thng c cỏc nh nghiờn cu khai thỏc di nhiu gúc khỏc
nhau. Mt s tỏc gi khai thỏc l hi di hỡnh thc cỏc sinh hot vn hoỏ cng ng [30,
tr.6-9] hay mt hỡnh thc trỡnh din dõn gian [25, tr.36-40]; mt s tỏc gi khỏc li quan
tõm n vai trũ ca l hi truyn thng trong xó hi ng i [10, tr.25-31], [19, tr.3-
6].
Trờn thc t, chỳng ta thy rng l hi c truyn l mt hin tng xó hi tng th,
trong ú cú mt s cỏc c trng ch yu nh:
+ L mt dng sinh hot tớn ngng - tõm linh;
+ L dp biu dng sc mnh ca cng ng a phng;
+ L dp on kt, giỏo dc truyn thng cng ng;
+ L hi ch trng by cỏc sn phm a phng v cỏc vựng khỏc;

+ Là dịp tổ chức các hoạt động giao tiếp như sinh hoạt nghệ thuật, các trò chơi giải
trí, thể thao;
+ Là địa điểm hành hương, du lịch
Từ những cả những đặc trưng trên của lễ hội cổ truyền đều gắn với một đặc điểm là:
lễ hội là một sản phẩm của quá khứ, được gìn giữ cho hiện tại và mai sau, lễ hội cổ
truyền là một di sản văn hoá của cộng đồng người Việt.
Trong Luật Di sản văn hoá, lễ hội được xem là di sản văn hoá phi vật thể. Điều 4 của
Luật Di sản văn hoá định nghĩa khái niệm di sản văn hoá phi vật thể như sau:
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền

một cộng đồng đối với cả không gian cũng như thời gian. Các thế hệ sau có thể tìm hiểu về
cuộc sống trong quá khứ. Bên cạnh đó, với quan niệm lễ hội cổ truyền là một di sản văn hoá
thích ứng với thời gian và không gian cụ thể, chúng ta sẽ xác định những biện pháp bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền trong xã hội hiện đại.
Lễ hội cổ truyền với tư cách là di sản văn hoá thường tồn tại trong những không
gian văn hoá vật thể (đình, đền, chùa, miếu ) và không gian văn hoá phi vật thể (tín
ngưỡng, tâm linh, nghi thức, tế lễ, rước sách, thờ cúng ). Lễ hội cổ truyền là địa chỉ tiêu
biểu của các giá trị văn hoá mà ông cha ta để lại cho con cháu muôn đời.
1.1.3. Một số đặc trưng của lễ hội cổ truyền
Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hoá cổ truyền của nhiều dân tộc ở
nước ta cũng như trên thế giới. Nó là tấm gương phản ánh trung thực đời sống văn hoá của
mỗi dân tộc. Lễ hội cổ truyền có hai đặc trưng cơ bản sau:
1.1.3.1. Lễ hội cổ truyền - một “hiện tượng văn hoá gian tổng thể”
GS. Ngô Đức Thịnh quan niệm “hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể” là: “một
hiện tượng văn hoá mang tính phức thể, mà trong phức thể ấy, một yếu tố văn hoá dân
gian nào đó giữ vai trò chủ đạo đó và cũng như gắn kết đa chiều với thực tại xã hội” [33,
tr.334].
Tổng thể của lễ hội không phải tổn thể “chia đôi” giữa phần lễ và phần hội như một
số người quan niệm, mà nó hình thành trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ, tín ngưỡng nào đó
(tường là tôn thờ một vị thần linh lịch sử, hay một thần linh nghề nghiệp, thần linh huyền
thoại ) rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng sinh hoạt văn hoá phái sinh để tạo
nên một tổng thể lễ hội. Cho nên, trong lễ hội, phần lễ là gốc rễ, chủ đạo, phần hội là
phần phái sinh tích hợp.
Nhìn một cách tổng thể, thì lễ hội chủ yếu vẫn thuộc phạm trù cái thiêng, của thế
giới thiêng liêng chứ không phải “cái tục”, cái thuộc về đời sống trần tục. Ngôn ngữ của
lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, vượt lên trên đời sống hiện hữu hàng ngày. Ngay một số
sinh hoạt vui chơi, giải trí, thi tài diễn ra trong lễ hội, như đua thuyền, đấu vật, kéo co,
thậm chí các trò chơi mang tính phồn thực vẫn mang tính nghi lễ, phong tục chứ không
còn mang tính “trần tục” thuần tuý, mà đã trở thành “cái tục” của thế giới thiêng liêng. Từ
đây rút ra một hệ quả mang tính thực tiễn là hiện nay chúng ta đang phục hồi, phát huy lễ hội

sinh, ngày hoá) và cùng với các hành động hội mang tính biểu trưng làm cho thời điểm
diễn ra lễ hội là “thời điểm thiêng”, “thời điểm mạnh”. Đó là thời điểm mà người xưa tin
rằng có giá trị đặc biệt, có ý nghĩ thiêng liêng, khác với thời điểm bình thường của đời
sống hàng ngày.
Ngôn ngữ của diễn xướng lễ hội rất đa dạng, như tế lễ, rước, các trò diễn, Tế là nghi
thức tưởng niệm, tôn vinh thần linh, với ngôn ngữ, ăn mặc và điệu bộ theo quy định của từng

địa phương. Ngoài tế, trong lễ hội còn có nhiều nghi thức khác nữa, đặc biệt là lễ khai hội và
lễ rã hội. Đây là những hình thức diễn xướng mang tính thiêng liêng nhất của lễ hội.
Rước cũng là một nghi lễ thiêng có ở các lễ hội, thể hiện sự nghênh tiếp thần linh,
phô diễn sức mạnh cộng đồng. Rước thường là màn trình diễn rất ngoạn mục vừa mang
tính trang nghiêm lại vừa rất sôi động, thu hút sự tham gia của đông đảo cộng đồng với
các nghi trượng tiêu biểu như cờ, kiệu, lễ vật dâng cúng, chiêng, trống, lọng và dàn nhạc
bát âm. Tuỳ theo các di tích thờ cúng là đền, đình hay chùa và đặc tính của các vị thần
linh mà đám rước có sắc thái khác nhau.
Các trò diễn và diễn xướng cũng giữ một vị trí hết sức quan trọng trong các lễ hội.
Có nhiều trò diễn và diễn sướng khác nhau, như diễn xướng sự tích, diễn xướng thi tài,
diễn xướng vui chơi giải trí.
Cả lễ hội là một đại diễn xướng, trong đó bao gồm nhiều diễn xướng lớn, nhỏ khác
nhau, tuy nhiên chúng kết hợp theo một trình tự và cấu trúc chặt chẽ, không dễ thay đổi
một cách tuỳ tiện. Thường là diễn xướng nghi lễ (lễ, tế, rước) giữ vai trò chủ đạo trong
mọi lễ hội, nó diễn ra từ ngày mở đầu đến kết thúc lễ hội.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, lễ hội cổ truyền là một hình thức diễn xướng dân gian xuất hiện xa xưa
trong lịch sử, trong đó bao gồm nhiều loại hình diễn xướng nhỏ, kết hợp hữu cơ tạo nên
một tổng thể diễn xướng lễ hội.
Thứ hai, lễ hội cổ truyền là một loại hình diễn xướng tâm linh, nó không còn là thế
giới hiện thực, “trần tục nữa”, mà nó vươn lên thế giới biểu tượng, linh thiêng. Nó tái
hiện lại lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội trong một “thời điểm mạnh”, thời điểm có giá trị
đặc biệt, thời điểm thiêng khác với thời gian thường ngày.

kết bởi nhu cầu đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng
cảm) Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng sinh, cộng cảm của
sức mạnh cộng đồng.
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người này càng khẳng định cái “cá
nhân”, cái “cá tính” của mình, nhưng không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ
biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào nhau, có nhu cầu cố
kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức
mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kết của cộng đồng.
1.2.2. Giá trị hướng về cội nguồn của lễ hội cổ truyền
Tất cả lễ hội cổ truyền đều hướng về cội nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con
người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là bộ phận hữu cơ, nguồn cội cộng đồng, như dân tộc,
đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá Hơn thế nữa, hướng về cội nguồn đã trở
thành tâm thức của người Việt, “ Uống nước, nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Do đó, ngày nay lễ hội thường gắn với hành hương du lịch.
Lễ hội đồng thời tái hiện lại cuộc sống của quá khứ và hiện tại bằng các hình thức lễ
tế và trò diễn. Đó là cuộc sống lao động sáng tạo và chống lại thiên tai, định hoạ, được

thể hiện dưới dạng những hoạt động văn hoá tinh thần vô cùng sinh động. Cũng thông
qua lễ hội, các kinh nghiệm lao động sản xuất, kinh nghiệm sống của ông cha được tái
hiện để con cháu học tập, noi theo.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ, toàn cầu hoá lan rộng,
truyền thống văn hoá độc đáo có đang có nguy cơ bị mai một. Chính trong môi trường
này, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu tìm về nguồn cội tự nhiên của mình, hoà
mình vào môi trường thiên nhiên, tìm lại cội nguồn gốc và bản sắc văn hoá của mình
trong cái chung của văn hoá nhân loại. Lễ hội cổ truyền là một trong những phương thức
quan trọng để con người thực hiện được những nhu cầu đó. Đây cũng chính là tính nhân
bản bền vững và sâu sắc của lễ hội cổ truyền có thể đáp ứng được nhu cầu con người
trong mọi thời đại.
1.2.3. Giá trị văn hoá tâm linh của lễ hội cổ truyền
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm

Người ta cùng nhau hành hương, cùng nhau tưởng tượng, cùng nhau chiêm bái về cái
thiêng và như vậy lễ hội lại nảy sinh ra những giá trị văn hoá mới mang tính lịch sử thời
đại.
1.2.5. Giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của lễ hội
cổ truyền
Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi
trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy. Cuộc sống của của cộng
đồng làng xã không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một năm với bao âu
lo, vất vả cuộc sống hàng ngày, rồi “xuân thu nhị kỳ” nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang
dậy tiến trống, tiếng chiêng, tưng bừng cờ hội, mọi người tụ hội nơi đình (đền, chùa) làng
mở hội. Ở nơi ấy, khi đó con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi con
người, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Đồng thời tạo ra không gian văn hoá cho các làn điệu dân ca,
dân vũ: hát chèo, hát xoan, hát ghẹo, hát trống quân ; các điệu múa sênh tiền, múa rồng,
múa lân, ; các trò chơi, trò diễn: đánh cờ người, vật, kéo co, bơi chải, đánh phết, được
dịp tổ chức sôi nổi.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự
nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc đang trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết, thì lễ hội cổ truyền lại thêm phần trọng trách là nơi bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc tại cộng đồng làng xã Việt Nam.
1.2.6. Giá trị kinh tế của văn hoá lễ hội cổ truyền
Giá trị này, được thể hiên trên những phương diện: Lễ hội cổ truyền tạo nên môi
trường du lịch văn hoá tâm linh hấp dẫn. Lễ hội như là nhân tố tạo nên sự thư giãn tinh
thần, là sự biểu hiện cách ứng xử văn hoá với thiên nhiên, với thần thánh, với cộng đồng
xã hội. Nhờ có không khí linh thiêng, vui tươi của ngày lễ hội mà mỗi người chút bỏ

Trích đoạn Giỏ trị bảo tồn, làm giàu và phỏt huy bản sắc văn hoỏ dõn tộc của lễ hội cổ truyền Bảo tồn trờn cơ sở kế thừa Thần điện nguyờn thuỷ phi kiến trỳc Cỏc thần điện cú kiến trỳ cở Vĩnh Phỳc Bài trớ thờ tự Một thiết chế thực hiện nghi lễ
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status