Thực trạng thiếu dinh dưỡng, một số yếu tố liên quan và đề xuất giải pháp can thiệp ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện việt yên bắc giang, 2006 2008 - Pdf 19

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG - BỘ Y TẾ
NGUYỄN THỊ NGỌC BẢO

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG THIẾU DINH DƯỠNG,
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
CAN THIỆP Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI
TẠI HUYỆN VIỆT YÊN - BẮC GIANG, 2006-2008 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

- CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG
- MÃ SỐ: 62.72.03.01
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN : 1. GS.TS. TRỊNH QUÂN HUẤN
2. TS. NGUYỄN THỊ LAN ANH
NĂM, 2012 1

2

Từ những năm đầu tiên của thập kỷ 90, các vấn đề về chăm sóc dinh
dưỡng và sức khỏe đã và đang ngày càng được Nhà nước quan tâm. Các
chương trình chăm sóc sức khỏe trẻ em như tiêm chủng mở rộng, các can
thiệp phòng chống suy dinh dưỡng và thiếu vi chất như phòng chống thiếu
vitamin A, thiếu sắt, thức ăn bổ sung, phát triển hệ sinh thái Vườn-Ao-
Chuồng (VAC), giáo dục dinh dưỡng, tẩy giun v.v đã đóng góp một phần
quan trọng vào việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe cho các đối
tượng có nguy cơ cao như trẻ em và bà mẹ [43], [44].
Suy dinh dưỡng vẫn là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng nghiêm trọng,
đặc biệt ở các vùng nghèo, vùng khó khăn như tỉnh Bắc Giang
Trên thực tế, Bắc Giang là một trong những tỉnh có tỷ lệ suy dinh dưỡng
cao. Qua đợt điều tra về tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi năm
2005 thì tỷ lệ suy dinh dưỡng của tỉnh là 25,7%. Bên cạnh những thành tựu về
kinh tế-xã hội cũng như công tác chăm sóc sức khoẻ, tỉnh Bắc Giang còn phải
đương đầu với nhiều khó khăn trở ngại, đặc biệt là tình trạng suy dinh dưỡng
trẻ em.
Để góp phần thiết thực xây dựng các giải pháp phòng chống SDD trẻ
em ở các vùng khó khăn trong giai đoạn tới, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
“Thực trạng thiếu dinh dưỡng, một số yếu tố liên quan và đề xuất giải pháp
can thiệp ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Việt Yên - Bắc Giang, 2006-2008”
nhằm đánh giá thực trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em tại một huyện miền núi, mô
tả mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với khẩu phần ăn của trẻ và xác
định mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với khẩu phần ăn, nhiễm ký
sinh trùng đường ruột ở trẻ từ đó đề xuất các giải pháp thích hợp, góp phần
thực sự vào công cuộc phòng chống SDD trẻ em ở nước ta. 3

trạng thiếu ăn ảnh hưởng trước hết đến các đối tượng bị đe dọa nhất, đó là phụ
nữ có thai, phụ nữ đang cho con bú và trẻ em trước tuổi học đường. Điều đó
được thể hiện qua các số đo nhân trắc của cơ thể [101]. Trong điều kiện thực
địa người ta dựa chủ yếu vào các chỉ tiêu nhân trắc dinh dưỡng gồm cân nặng
theo tuổi, chiều cao theo tuổi, cân nặng theo chiều cao, vòng cánh tay để phân
lọai tình trạng suy dinh dưỡng [101], [121], [127].
Năm 1956, Gomez - một thầy thuốc người Mexico đã dựa vào cân nặng
theo tuổi để phân loại tình trạng dinh dưỡng trẻ em. Cách phân loại của
Gomez đã xác định cân nặng của đối tượng theo phần trăm so với cân nặng
chuẩn vào quần thể tham khảo Havard. Trong một thời gian dài, cách phân
loại này đã được sử dụng như là chỉ tiêu duy nhất phân loại suy dinh dưỡng ở
cộng đồng [22].
Năm 1966, Jelliffe - người đã có công đưa ra khái niệm suy dinh
dưỡng protein - năng lượng, tức là đã nhấn mạnh đến vai trò năng lượng ăn
vào đối với bệnh sinh suy dinh dưỡng - cũng đã đưa ra cách phân loại dựa
vào quần thể Havard. Sau đó còn có các đóng góp của các tác giả khác như
Welcome dựa vào triệu trứng lâm sàng bổ sung và của Waterlow đưa ra chỉ
tiêu chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao nhằm phân biệt suy dinh
dưỡng cấp tính mới xảy ra hay đã trường diễn [213], [214], [216]. Cách phân
loại của Waterlow dựa vào quần thể tham khảo NCHS. Mặc dù quần thể tham
khảo NCHS chưa thể được coi là lý tưởng nhưng để có được quần thể tham
khảo tốt không phải là dễ dàng [217]. Vào thời điểm thập kỷ những năm 70, 5

80 của thế kỷ XX, quần thể tham khảo NCHS đáp ứng được các tiêu chuẩn
cần thiết và được sử dụng rộng rãi trên thế giới nên rất thuận tiện cho việc so
sánh quốc tế [141]. Năm 1980, Tổ chức Y tế thế giới khuyến nghị cách phân
loại tình trạng dinh dưỡng theo các điểm ngưỡng dưới hai độ lệch chuẩn (-

sinh ra cân nặng của trẻ sẽ rất thấp.
SDD bào thai là thể suy dinh dưỡng sớm nhất. Ở những trẻ này, các cơ
quan như da, cơ, xương, não, gan, thận đều bị ảnh hưởng mà điều dễ nhận
thấy nhất là trẻ sinh ra nhẹ cân. Hậu quả của tình trạng này tuỳ thuộc vào giai
đoạn bào thai bị SDD, chế độ nuôi dưỡng trẻ sau khi chào đời. SDD xảy ra ở
3 tháng cuối của thai kì làm cho bộ não chậm phát triển, sau này trẻ sẽ kém
thông minh. Trẻ bị SDD bào thai khi chào đời dễ bị hạ thân nhiệt, hạ đường
máu gây rối loạn nhịp thở, hạ canxi máu gây co giật. Nếu được nuôi dưỡng
đúng, trẻ sẽ phát triển bình thường và đạt mức cân nặng như những trẻ khác
sau 2-3 tháng. Ngược lại, nuôi dưỡng không tốt, trẻ tiếp tục bị SDD, trẻ ốm
đau, quặt quẹo, còi cọc, chậm phát triển trí tuệ, kém thông minh. Theo Tổ
chức Y tế thế giới (WHO), có đến 1/3 số trẻ có cân nặng khi sinh dưới 2.500g
bị chết trong năm đầu đời. 7Hình 1.1: Dinh dưỡng theo chu kì vòng đời

1.2. Xu hướng về tỷ lệ thiếu dinh dưỡng trên thế giới
Theo Tổ chức Y tế thế giới, hiện nay trên phạm vi toàn thế giới có
khoảng 165 triệu trẻ em dưới 5 tuổi - chủ yếu tập trung ở các nước đang phát
triển - bị suy dinh dưỡng [227], [12]. Đồng thời, người ta quan sát thấy hơn
một nửa số trường hợp tử vong trẻ em có liên quan đến suy dinh dưỡng. Bên
cạnh đó, những hậu quả ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và tinh thần do



% Triệu

Châu Phi
Châu Mỹ la tinh
Châu Á
30,4

15,6

47,8

22,9

7,5

164,6

27,3

11,5

41,3

31,6

6,4

154,6


35,8

193,4

34,6

199,8

33,6

105,9

Tòan thế giới 34,6

198,6

31,3

195,8

-

-

26,0

167,0

Mức giảm (%)

5,2

6,2

5,5

3,4

3,2

4,3

1.3. Xu hướng của thực trạng SDD trẻ em ở Việt Nam.
Tỷ lệ SDD trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi qua các cuộc điều tra quốc gia
cho thấy [35], [42]: 10
Bảng 1.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam qua các
cuộc điều tra quốc gia [35], [42]
Thời gian SDD CN/T (%) SDD CC/T (%)
Thời kỳ 1981-1985 51,5 60,9
Năm 1994 44,9 46,9
Năm 2000

33,8

36,5

cũng như chức năng sinh lý khác của trẻ.
1.4.1. Suy dinh dưỡng protein năng lượng
Suy dinh dưỡng do thiếu protein năng lượng được coi là vấn đề dinh
dưỡng chủ yếu của các nước đang phát triển như châu Phi, châu Á, Nam Mỹ,
khu vực Trung Đông [95]. Trong đó, các nước thuộc châu Phi có tỷ lệ suy
dinh dưỡng cao nhất. Đó là những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến
tranh và thiên tai kéo dài, sản xuất đình trệ, nhất là sản xuất nông nghiệp kém
phát triển. Trình độ dân trí thấp và sinh đẻ thiếu kế hoạch là những nguyên
nhân tiềm tàng dẫn đến tỷ lệ suy dinh dưỡng protein năng lượng cao. Bảng
1.1 ở trên đã cho hình ảnh tổng quát về tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng trẻ em theo
chỉ tiêu cân nặng theo tuổi theo khu vực được UNICEF và WHO thống kê
đến hết năm 2010. 12
1.4.2. Khẩu phần và chất lượng bữa ăn không đảm bảo
Đặc điểm sinh lý học và nhu cầu năng lượng của trẻ em trong độ tuổi
ăn bổ sung.
Lứa tuổi ăn bổ sung (hay còn gọi là ăn sam, ăn dặm ) là một giai đoạn
phát triển rất quan trọng của cơ thể. Về hình thức đây là giai đoạn chuyển tiếp
từ bú mẹ hoàn toàn đến cai sữa. Về mặt sinh lý học, lứa tuổi này đảm đương
những chức năng phát triển hệ thống căn bản như hệ miễn dịch, hệ thần kinh
[21]. Các cơ quan và tổ chức mô, não bộ, bộ xương, trí tuệ và thể lực, chức
năng sinh lý… ở trẻ em được hình thành chủ yếu trong thời gian đến 3 tuối
(Marberly G) [78]. Giải quyết tốt vấn đề dinh dưỡng ở lứa tuối này sẽ làm cho
trẻ tiếp tục phát triển bình thường như thời kỳ còn bú mẹ, tạo đà cho cả quá
trình phát triển về sau, góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em nói chung.
Theo bảng Nhu cầu năng lượng của Viện Dinh dưỡng khuyến nghị cho
người Việt Nam, trong đó có nêu rõ khẩu phần cho trẻ em thì nhất thiết cần
chú ý tỷ lệ hợp lý (tính bằng %) Protit/ Lipid/ Gluxit bước đầu là 12/18/70,

500

11

350

0,4

0,5

5,4

30

Từ 1-3 tuổi 500 6 400

0,8 0,8 9 35

Do ở nước ta, trẻ em chưa có tập quán (hoặc điều kiện) ăn sữa và các
loại thức ăn nhân tạo dành cho trẻ nhỏ, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng đối với trẻ ở lứa tuổi này, đặc biệt là trẻ ở nông thôn, chủ yếu là bột
gạo. Thực tế đó tạo nên mâu thuẫn lớn giữa nhu cầu và giải pháp, giữa một
bên là bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh với một bên là nguồn thực phẩm
không giàu năng lượng.
Có thể lấy lứa tuổi 6-12 tháng là những trẻ đã quen ăn bột, có nhu cầu
năng lượng 820 Kcal/ngày làm đại diện cho nhóm trẻ ăn bột. Đây cũng là
nhóm trẻ vẫn tiếp tục bú mẹ và bắt đầu ăn sam để tiến tới độc lập với sữa mẹ.
Thử tính phần ăn sam cung cấp tương ứng 1/2 hoặc 2/3 nhu cầu nói trên, với
giá trị năng lượng của bột gạo khoảng 350 Kcal/100g, thì mỗi ngày trẻ phải
tiêu thụ từ 120 đến 170 gam bột khô. Với những trẻ không bú sữa mẹ thì phải

Trung du cho thấy chưa xác lập được an ninh lương thực hộ gia đình. Tình
trạng thiếu ăn ở một số địa phương còn phổ biến: Vào lúc giáp hạt, năm 1996
có 97,2% số hộ gia đình ở tỉnh Quảng Bình thiếu ăn với số tháng thiếu ăn cao
nhất là 8 tháng/năm [17]. Tổng Điều tra Dinh dưỡng toàn quốc năm 2010 gần
đây cũng cho thấy vẫn còn từ 10-25% số hộ thiếu đói lương thực vào thời
điểm giáp hạt [26], [28].
Tình trạng mất an ninh thực phẩm theo mùa là một vấn đề rất đáng
quan tâm. Đây vẫn còn là một tồn tại khá phổ biến; ở những hộ nghèo, có 15
33% gia đình thiếu ăn trước thời vụ và 19% gia đình trong tình trạng thiếu ăn
sau thu hoạch [28].
1.4.4. Thực hành dinh dưỡng kém
Thực hành dinh dưỡng kém liên quan đến sự mất cân đối trong bữa ăn
và sự lựa chọn ưu tiên hợp lý cho đối tượng là trẻ em và người mẹ mang thai
[69], [80]. Ngay cả khi một hộ gia đình đảm bảo được an ninh lương thực vẫn
có thể thiếu lương thực thực phẩm đối với cá thể, nhất là các cá thể có nguy
cơ cao như trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ mang thai… mà nguyên nhân chủ yếu
là do thực hành dinh dưỡng. Hai yếu tố nhạy cảm nhất trong thực hành dinh
dưỡng ở trẻ em là sữa mẹ và chế độ ăn bổ sung.
a) Vấn đề sữa mẹ:
Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên của trẻ em. Ngoài việc cung cấp chất
dinh dưỡng hợp lý về số lượng, sữa mẹ được đảm bảo sự cân đối lý tưởng
giữa các chất dinh dưỡng và là nguồn cung cấp các chất globulin miễn dịch từ
thức ăn duy nhất của đứa trẻ (Hanson, Lars A.et.al) [64]. Hàm lượng và tỷ lệ
các chất dinh dưỡng trong sữa mẹ của phụ nữ Việt Nam tương đương với các
nước khác (Bùi Thị Nhu Thuận, [38]). Tuy nhiên, phần lớn trẻ em, đặc biệt là
ở các nước kém phát triển và đang phát triển, thời gian bú sữa mẹ chưa được
đảm bảo, nhất là thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn (De Zoysa, I., M.Rea and

Một số quốc gia:

Brunei 2009 81,5 % 28,1%
Indonesia

2008

88,7 %

17,8 %

Nhật Bản 2009 96,8 % 46,7 %
Singapore 2005 92 % 49,6%
Việt Nam
(Số liệu giám sát
dinh dưỡng của
Viện Dinh dưỡng -
Bộ Y tế)
2009 93,5% 19,6 %

Rõ ràng tình hình nuôi con bằng sữa mẹ là vấn đề đang quan tâm vì có
ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ, trong khi tỷ lệ nuôi con
bằng sữa mẹ hoàn toàn ở nước ta vẫn còn quá thấp. 17
b) Vấn đề số bữa ăn và chất lượng ăn bổ sung:
Chất lượng chế độ ăn bổ sung liên quan đến số bữa ăn và dạng thức ăn
được sử dụng. Các dạng thức ăn phổ biến ở nông thôn hiện nay là bột gạo,
cháo, cơm nhai.

Nhiều tập quán ăn uống không có lợi như ăn kiêng (kiêng dầu mỡ, cá,
rau xanh…) còn duy trì; không biết tận dụng nguồn thức ăn giầu dinh dưỡng
sẵn có như đậu, vừng, lạc…bán trứng gà, hoa quả để mua thực phẩm chế biến
sẵn; không cho ăn đủ bữa, không thực hành bữa ăn cân đối…
1.4.6. Thiếu vitamin và khoáng chất
Bên cạnh suy dinh dưỡng do thiếu Protein và năng lượng, khoa học
ngày nay đã thừa nhận kết quả tăng trưởng nghèo nàn ở trẻ em còn có thể do
mất cân đối các yếu tố vi lượng (như sắt, kẽm, iod- Mendoza, 1996 [82]),
vitamin (như thiếu vitamin A) hoặc một số axit béo thiết yếu và một số loại
khoáng chất khác (UNICEF, 1998), [12], [78], [73], [62].
Vi chất dinh dưỡng cần thiết cho mọi lứa tuổi, song nó ảnh hưởng rõ rệt
trên những cơ thể đang phát triển nhanh như phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh và
trẻ còn bú. Hầu hết các vitamin (nhóm B, vitamin A, vitamin C ) được hấp
thu chủ yếu qua thức ăn. Chỉ có vitamin D được tổng hợp ở da dưới ánh nắng
mặt trời trực tiếp.
Từ nhiều năm trước đây, người ta đã nhận thấy vai trò của các vi chất
dinh dưỡng và càng ngày người ta lại càng tập trung nghiên cứu về mối liên
quan giữa thiếu vi chất dinh dưỡng đối với tình trạng suy dinh dưỡng. Do đó,
nhiều nghiên cứu tập trung vào việc xác định xem thiếu vi chất dinh dưỡng
loại nào cản trở quá trình phát triển và quan trọng hơn là cần xác định suy
dinh dưỡng xảy ra do thiếu một hay thiếu nhiều vi chất dinh dưỡng xảy ra
đồng thời. 19
Theo Engle, mô hình nguyên nhân SDD của Quỹ nhi đồng Liên hợp
quốc (UNICEF) đã được phổ biến khá rộng rãi hoặc mô hình gần đây về
Chăm sóc Ban đầu - Care Initiative đều tập trung vào vai trò chăm sóc dinh
dưỡng sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Trong các mô hình trên người ta không rút ra
được các yếu tố nguyên nhân của tình trạng suy dinh dưỡng [63], [64].

của trẻ em
Tình trạng sức
khỏe của trẻ em

An ninh
LTTP h

gia đình

Chăm sóc
bà mẹ và
tr
ẻ em

Môi trư
ờng
sức khỏe
&và dịch
vụ y tế
- Sản xuất l
ương
thực, thực
phẩm

- Thu nhập

- Quà
Nguồn lực cho an
ninh lương thực
th

ềm tin
c
ủa ng
ư
ời chăm sóc

N

G

U

Y

ÊN

N

H

Â

NT


ản

Đ Ó I N G H È O
Ngu
ồn: IFPRI: Overcoming Child Malnutrition in Developing Countries:
Past achievements and future choices; 2/2000, trang 5

Mô hHình 1.23. Mô hình nguyên nhân SDD của UNICEF 21
Đối với nước ta, mức giảm SDD không đồng đều giữa các vùng. Các
vùng tập trung dân cư đông hiện nay tỷ lệ SDD còn cao: Đồng bằng sông
Hồng 14,6%; Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 19,8%; Đồng bằng sông
Cửu long 16,8% (Nguồn: Viện Dinh dưỡng - Tình hình dinh dưỡng Việt Nam
năm 2009-2010, tháng 4/2011). Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc thực hiện có
hiệu quả các hoạt động chăm sóc trẻ em và bà mẹ không đồng đều và khó có
thể có những tiến bộ nhanh trong một thời gian ngắn. Bên cạnh đó, những
thách thức không nhỏ về tăng trưởng kinh tế trong 5 năm tới đã và đang đặt ra
đồng thời khả năng có thể có những diễn biến bất lợi về thời tiết, thiên tai.
Tóm lại: Nghèo đói chính là nguyên nhân cơ bản của suy dinh dưỡng
và mối quan hệ giữa nghèo đói và suy dinh dưỡng giống như một vòng tròn
luẩn quẩn. Tình trạng dinh dưỡng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các
cơ hội tìm kiếm thu nhập. Bên cạnh nghèo đói, các yếu tố khác cũng quan
trọng. Những yếu tố này bao gồm chế độ ăn không cân đối, khẩu phần ăn
thiếu về số lượng và mất cân đối về chất lượng, thực hành chế biến thực phẩm
kém, mất an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, không có hoặc thiếu khả năng
tiếp cận nước sạch, điều kiện vệ sinh kém và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
không đầy đủ. Suy dinh dưỡng trẻ em còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
quan trọng khác, đặc biệt là những yếu tố liên quan đến việc sử dụng nguồn

Nhiễm giun đường ruột rất phổ biến ở trẻ em tại các nước đang phát
triển, đặc biệt là các nước trong vùng nhiệt đới do khí hậu nóng ẩm, tập quán
ăn uống, vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường kém.
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, điều kiện khí hậu, tập quán sinh
hoạt cũng như vệ sinh môi trường rất thuận lợi cho sự phát triển và lây nhiễm
giun. Người dân chưa có thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh
chiếm tỉ lệ trên 82%, người dân còn dùng phân tươi để bón rau nên tỉ lệ nhiễm
giun ở trẻ em rất cao khoảng 80% (đặc biệt trẻ em vùng nông thôn). Tỉ lệ 23
nhiễm giun ở trẻ em khác nhau tuỳ từng vùng, từng khu vực, tuỳ theo điều
kiện phát triển kinh tế của xã hội. Ở các nước phát triển, tỉ lệ nhiễm giun ở trẻ
em dưới 5 tuổi là 10%, trong khi đó ở các nước đang phát triển thì tỷ lệ này có
nơi lên đến trên 90% .
b. Tình hình nhiễm giun ở Việt Nam
Theo số liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương, trẻ em dưới 2 tuổi bị
nhiễm giun rất thấp 17,6%, trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tỉ lệ nhiễm giun đũa là
84,5%, giun kim 52,3%, giun móc 9,2%. Trong thực tế trẻ em tuổi mầm non
bị nhiễm giun sẽ biếng ăn, mất ngủ, thiếu máu, suy dinh dưỡng. Các nhà
nghiên cứu đã cho thấy các biến chứng của bệnh giun như sau: viêm hoại tử
ruột non, tiêu đàm máu, tiêu chảy cấp và mạn, xuất huyết tiêu hoá, giun chui
ống mật, nhiễm trùng đường tiểu…làm ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh
dưỡng trẻ em, sức khoẻ và sự phát triển về thể lực và phát triển trí tuệ của trẻ.
Theo số liệu điều tra gần đây của Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn
trùng Trung ương, bệnh giun truyền qua đất ở nước ta vẫn còn khá phổ biến.
Tỷ lệ nhiễm giun đũa là 33,9 triệu người (chiếm khoảng 44,4%); giun tóc là
17,6 triệu người (chiếm khoảng 23,1%) và 21,8 triệu người nhiễm giun móc
(28,6%).
Tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất phân bố rộng rãi trên cả nước, với các

sự phát triển trí tuệ, sự tăng trưởng, nó làm giảm khả năng họat động thể lực
và tăng nguy cơ mắc bệnh (Nestel và Davidsson, 2002). Thiếu máu có thể do
nguyên nhân như: thiếu dinh dưỡng, mắc các bệnh nhiễm trùng và do mất
máu. Thiếu sắt là nguyên nhân chính của gần 50% các trường hợp thiếu máu
(Staubli, và CS, 2001). Thiếu một số các vi chất dinh dưỡng khác như vitamin
A, một số vitamin nhóm B (B6, B12, riboflavin, và acid folic) cũng có thể gây
thiếu máu (Allen, 2002). Nguy cơ thiếu máu cũng tăng ở những đối tượng

Trích đoạn Các phương pháp phân tích, xử lý thống kê: Một số chỉ tiêu bệnh tật trước khi can thiệp dinh dưỡng
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status