Đánh giá sự ảnh hưởng của bệnh alzheimer theo từng giai đoạn đến chức năng sinh hoạt hàng ngày và khả năng tái hội nhập cộng đồng - Pdf 19


1
ĐặT VấN Đề

Ngày nay, khi tuổi thọ trung bình của loài người tăng, thì sự già hoá
dân số trên toàn thế giới trong thế kỷ XXI là không tránh khái, cùng với tăng
tuổi thọ mô hình bệnh tật cũng biến đổi và tăng mạnh. Việt Nam cũng như các
quốc gia khác đang đứng trước sự thách thức của các bệnh liên quan đến lão hoá
và thoái hoá thần kinh, đặc biệt là bộ não, sự thoái hoá đã gây nên nhiều tình
trạng bệnh lý, trong đó mét trong những bệnh hay gặp nhất là sa sút trí tuệ.
Thế giới tính đến năm 2000 có tới 580 triệu người trên 60 tuổi và dự
đoán đến năm 2020 sẽ đạt tới con số một tỷ người [42]. Riêng Việt Nam,
trong gần 30 năm qua số người cao tuổi tăng lên nhanh chóng theo điều tra
năm 1979 có 3,7 triệu người cao tuổi (>60 tuổi), chiếm 7,06% tổng dân số lên
4,6 triệu năm 1989, 6,2 triệu năm 1999 chiếm 8,2% tổng dân số và 9,1 triệu
năm 2004. Tỷ lệ người cao tuổi trong dân số cũng tăng lên, lần lượt là 7,10%,
8,12% và 8,95%. Theo dự báo, tỷ lệ người cao tuổi sẽ tăng gấp đôi lên tới
16% năm 2029 [4].
Sa sút trí tuệ là một hội chứng suy giảm chức năng nhận thức mắc phải
kèm theo những thay đổi về hành vi và mất chức năng xã hội. Giảm trí nhớ
(memory) là biểu hiện quan trọng nhất, ngoài ra các lĩnh vực khác cũng bị rối
loạn như mất ngôn ngữ (language), mất sử dụng động tác, mất nhận biết đồ
vật, chức năng nhiệm vụ [16]. Bệnh không những gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh mà còn là gánh nặng cho gia
đình, cộng đồng cũng như toàn xã hội [139].
Một nhóm nghiên cứu ước tính tỷ lệ mắc bệnh toàn bộ của sstt trên 60

tuổi trên toàn thế giới là 3,9%. Châu Phi là 1,6 %, Đông Âu là 3,9%, Trung
Quốc là 4,0%, Châu Mỹ la Tinh 4,6%, Tây Âu 5,4% và Bắc Mỹ là 6,4%
[126]. Có nhiều nguyên nhân gây sstt như bệnh Alzheimer, sstt do mạch máu,


bệnh nhân vào bệnh viện hoặc khu điều trị riêng biệt để chăm sóc người
bệnh. Chính vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với
mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer đến khám và điều
trị tại Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương.
2. Đánh giá sự ảnh hưởng của bệnh Alzheimer theo từng giai đoạn
đến chức năng sinh hoạt hàng ngày và khả năng tái hội nhập cộng
đồng.

4
Chương I
TổNG QUAN TàI LIệU
I. Đại cương về sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer
1.1. khái niệm chung về sa sút trí tuệ
1.1.1. Định nghĩa.
Sstt(dementia) là một hội chứng có đặc điểm là suy giảm nhiều chức năng
nhận thức nhưng không kèm theo rối loạn về ý thức. Sstt có biểu hiện sớm
nhất là tình trạng suy giảm trí nhớ, kèm theo suy giảm một hoặc nhiều chức
năng trí tuệ hay nhận thức khác như mất ngôn ngữ, mất khả năng thực hiện
các động tác hữu ý, mất tri giác và mất khả năng điều hành, các triệu chứng
trên đủ để gây cản trở các chức năng sinh hoạt hàng ngày, các hoạt động xã
hội, giải trí và nghề nghiệp. Trong hầu hết các trường hợp sstt tiến triển nặng
dần và không hồi phục, sstt có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra
[8][9].
1.1.2. Bệnh Alzheimer
Bệnh Alzheimer được đặt tên của nhà thần kinh học người Đức Aloi-
Alzheimer ông là người đầu tiên khám phá ra bệnh năm 1906. Ông đã nghiên
cứu mô tả các triệu chứng lâm sàng, đặc điểm giải phẫu, bệnh lý cùng hậu quả
và biến chứng của nó. Sau này bệnh được mang tên ông gọi là bênh
Alzheimer [20].

Như vậy, tiến triển dẫn đến tàn phế của bệnh Alzheimer là không thể tránh
khỏi. Điều này chỉ phụ thuộc vào thời gian và giai đoạn bệnh. Có tác giả còn
ví von việc chăm sóc người bị bệnh Alzheimer là “công việc tang tóc”
[106][107].
1.2. Một vài nét về dịch tễ học
1.2.1. Trên thế giới

6
Năm 2000, số người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) trên toàn thế giới là 420
triệu người và sẽ tăng dần lên trên một tỷ vào năm 2030. Như vậy, tỷ lệ người
già tăng từ 7% đến 12%. Số người già tăng mạnh nhất ở các nước đang phát
triển, gần gấp 3 lần từ 249 triệu (năm 2000) lên 690 triệu (năm 2030) [31]
[63]. Cùng với sự “già hoá dân số’’, mô hình bệnh tật cũng thay đổi rõ rệt,
đặc biệt là sự phát triển của các bệnh thoái hoá, trong đó sa sút trí tuệ thật sự
là thảm hoạ đối với người cao tuổi. Trong các nguyên nhân gây sa sút trí tuệ
thì bệnh Alzheimer chiếm 50 - 70% và SSTT do bệnh lý mạch máu não chiếm
14 - 25% [17][31].
Các công trình nghiên cứu về SSTT đã có từ lâu và đến nay tuổi thọ ở các
nước châu Âu và Mỹ ngày càng được nâng cao. Wimo và cộng sự ước tính số
người mắc bệnh sstt trên thế giới năm 2000 khoảng 25,5 triệu người trong đó
46% những người này sống ở Châu á, 30% sống ở châu Âu và 12% sống ở
Bắc Mỹ. Khoảng 54% những người đó sống ở những khu vực phát triển thấp.
Khoảng 6% số người trên 65 tuổi bị sstt và 59% trong số đó là nữ giới
[132][169].
Năm 1990, Zhang M, Katzman R, Salmon D và cs [175] nghiên cứu tại
thượng Hải trên 5.055 người cao tuổi qua hai giai đoạn cho thấy tỷ lệ mắc
SSTT là 4,6% trong đó bệnh AD chiếm 65%. Tỷ lệ này tăng theo tuổi, nữ giới
và trình độ học vấn thấp.
Bệnh Alzheimer thường được chẩn đoán ở người trên 65 tuổi [66], mặc dù
khởi phát bệnh Alzheimer có thể xảy ra sớm hơn nhiều. Trong năm 2006, đã

trên thế gới. Đây là một con số khổng lồ đòi hỏi các chi phí cao về y tế, con
người và là gánh nặng của xã hội trong một thế giới văn minh [17][48].
Theo các nhà nghiên cứu Mỹ thuộc trường đại học Johns Hopkins, hơn 26
triệu người trên thế giới mắc bệnh Alzheimer và theo các dự đoán mới, con số

8
này sẽ tăng gấp 4 lần từ nay dến năm 2050. Theo tốc độ này trong vòng 40
năm cứ 85 người thì sẽ có 1 người mắc căn bệnh thoái hoá thần kinh này.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy số lượng bệnh nhân Alzheimer trên toàn
cầu là hơn 37 triệu trong đó 16 triệu ở Mỹ, 1,5 triệu ở Nhật Bản. Khu vực
Châu á - Thái Bình Dương có khoảng 4,3 triệu ca mất trí nhớ mỗi năm, trong
đó số lượng mắc bệnh mất trí nhớ do bệnh Alzheimer chiếm tỷ lệ
lớn[144][146].
Tại Pháp năm 2005 có khoảng 850.000 trường hợp sa sút trí tuệ, theo dự
đoán đến năm 2020 số lượng này có thể tăng lên 1.200.000 trường hợp và
năm 2040 có thể lên tới 2.100.000 trường hợp. Dưới góc độ kinh tế thì đây là
bệnh cần chi phí tốn kém nhất, chỉ đứng sau bệnh tim mạch và ung thư [20].
Tổng chi phí cho chăm sóc SSTT tại nước Anh là khoảng 6 tỷ bảng anh 1
năm, bao gồm cả dịch vụ sức khoẻ và xã hội [43]. ở Hà Lan, tổng chi phí
chung cho dịch vụ chăm sóc SSTT ước tính khoảng 1.502 triệu Euro. ở Thuỵ
Điển chi phí trong năm 1991 cho những người trên 65 tuổi bị SSTT từ trung
bình đến nặng là khoảng 30 tỷ SEK. Tại Italia, tổng chi phí cho chăm sóc 1
bệnh nhân SSTT khoảng 3.194 Euro mỗi năm [46].
Tại Argentina chi phí trung bình mỗi năm cho một trường hợp mắc bệnh
Alzheimer mức độ nhẹ là 3.420 USD và bệnh nhân nặng có thể lên tới 9.657
USD, phần lớn các chi phí này do người nhà trả trực tiếp. Nghiên cứu của
Jonsson L chi phí trung bình hàng năm cho mét bệnh nhân AD tại cộng hòa
Séc là 172.000 SEK và dao động từ 60.700 SEK ở bệnh nhân nhẹ và 375.000
SEK ở bệnh nhân nặng. Những con số trên đã phần nào nói lên được tính thời
sự cấp thiết của bệnh SSTT nói chung và bệnh AD nói riêng ở người cao tuổi.

nhận thức nhẹ (MCI) và sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại cộng đồng, chuẩn
hoá các bộ trắc nghiệm thần kinh tâm lý trong sàng lọc và chÈn đoán sa sút trí

10
tuệ, xác định đặc điểm lâm sàng và suy giảm nhận thức ở một số thể sa sút trí
tuệ. Chuẩn hoá mẫu bệnh án, hoàn thành bộ trắc nghiệm dùng chẩn đoán bệnh
Alzheimer [2].
Tại đây đã có các nghiên cứu đề cập đến vấn đề sstt và bệnh Alzheimer như:
Nguyễn Kim việt và cộng sự [30] thuộc viện sức khỏe Tâm thần nghiên cứu
một quần thể dân cư 8.965 người trong đó có 727 người bị sstt từ 60 tuổi trở
lên. Tác giả dựa vào trắc nghiệm Kiểm tra Trạng thái Tâm trí thu nhá
(MMSE), sau đó khám lâm sàng theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Bảng Phân
Loại Quốc tế các Bệnh tật lần thứ 10 ( ICD-10) [171]. Kết quả cho thấy tỷ lệ
mắc sstt ở người cao tuổi là 7,9%, tỷ lệ này tăng theo tuổi.
Nguyễn ngọc Hòa [6] đã nghiên cứu tỷ lệ mắc và một số yếu tố liên quan
đến sstt ở người cao tuổi tại huyện Ba vì, tỉnh Hà Tây. Theo tác giả, sstt ở nữ
cao hơn nam, đa số có trình độ học vấn thấp, tỷ lệ sstt ở người cao tuổi chiếm
4,6%. SSTT tăng lên theo tuổi, yếu tè gia đình góp phần làm tỷ lệ sstt tăng
cao hơn nhóm không có yếu tố gia đình. Đặc biệt tác giả nhận thấy ở những
người tăng huyết áp, tỷ lệ sstt cao hơn so với nhóm người bình thường 1,5
lần, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê khi phân tích đơn biến. Mặt khác tỷ
lệ sstt ở nhóm các bệnh nhân có tiền sử tai biến mạch máu não cao hơn nhóm
người bình thường khoảng 8,4 lần. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê khi
phân tích đơn biến và đa biến.
Đinh văn Thắng, Lê Văn Thính [21] nghiên cứu bước đầu một số đặc điểm
của sstt ở bệnh nhân nhồi máu não tại Bệnh viện Thanh Nhàn năm 2006. Các
tác giả xem xét 40 bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện, chÈn đoán xác
định bằng lâm sàng và chụp lắt lớp vi tính nhận thấy tuổi trung bình của bệnh
nhân là 68. Tỷ lệ nam giới mắc bệnh nhiều hơn nữ giới, không có sự khác
nhau về nghề nghiệp, yếu tố nguy cơ quan trọng nhất là tăng huyết áp, rối


12
bệnhAlzheimer và SSTT do mạch máu.
Nguyễn Quốc Dũng [4] thì thấy triệu chứng lâm sàng rối loạn trí nhớ
là(100%), chủ yếu là rối loạn trí nhớ tức thời, trí nhớ gần, còn trí nhớ vĩnh
viễn Ýt bị ảnh hưởng. rối loạn tâm thần, mất nhận thức (75%). Các rối loạn về
ngôn ngữ, xây dựng hình ảnh, đánh giá chức năng thuỳ trán chiếm tỷ lệ thấp.
Hoạt động hàng ngày bằng công cụ giảm nhiều (100%). Tuy nhiên, so với các
tác giả trong nước thì cũng không có sự khác biệt lớn chứng tỏ đây là bệnh lý
của người cao tuổi [9][15].
Tại thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu gần đây ở nhóm người cao tuổi
đã ghi nhận tỷ lệ bệnh sa sút tâm thần là 7,8%, trong đó có 50% là do bệnh
Alzheimer đơn thuần và 30% là do hỗn hợp giữa bệnh lý mạch máu và bệnh
Alzheimer. Đa số trường hợp bệnh xuất hiện sau 65 tuổi, tuy nhiên hiện nay
đã có một số nhỏ xuất hiện trước 65 tuổi. Cứ trong 100 người ở lứa tuổi 65 thì
có khoảng 5 người bị sa sút trí tuệ do Alzheimer, còn đối với lứa tuổi 85 thì
trong 100 người có gần 50% người bị mắc bệnh này. Trong khi đó, xu hướng
hiện nay người già ngày càng sống thọ nên tỷ lệ người sa sút trí tuệ do bệnh
Alzheimer cũng ngày càng gia tăng [31].
II. Đại cương về các phương pháp đánh giá
2.1. Khái niệm về Chức năng sinh hoạt hàng ngày.
Chức năng sinh hoạt hàng ngày là những nhu cầu cần thiết đối với con
người, là những hoạt động căn bản của đời sống hàng ngày như ăn uống, vệ
sinh cá nhân, thêm vào đó là những nhu cầu khác như đọc, viết, làm việc
trong nhà hoặc ra ngoài để giải trí hay mưu sinh [12].
Khi bị bệnh AD dù ở giai đoạn nào thì bệnh nhân cũng giảm hoặc mất khả
năng độc lập, phải phụ thuộc vào người khác trong các hoạt động sinh hoạt
hàng ngày làm ảnh hưởng đến khả năng tái hội nhập xã hội của người bệnh.
2.2. Thang điểm đánh giá về Chức năng sinh hoạt hàng ngày


và gia đình của họ về khả năng phục hồi của người bệnh [112].
Pedersen-PM, Jorgensen- HS, đã sử dụng chỉ số hoạt động Frenchay
(FAI/Frenchay Activities Index) kết hợp với chỉ số Barthel (BI/Barthel Index)
đánh giá mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày. Tác giả thấy rằng chỉ số
hoạt động Frenchay và chỉ số Barthel có bổ sung cho nhau và rất thuận tiện để
nghiên cứu kết quả phục hồi chức năng ở bệnh nhân tai biến mạch máu não
[149].
Khi bị bệnh AD hầu như tất cả các giai đoạn bệnh nhân đều bị giảm hoặc mất
khả năng độc lập trong SHHN về vấn đề tự chăm sóc bản thân như ăn uống,
tắm giặt, chải đầu, giặt quần áo, đại tiểu tiện, sử dụng nhà vệ sinh… và các
công việc khác như làm việc nhà, quản lý chi tiêu tài chính, sử dụng các
phương tiện giao thông, nó ảnh hưởng nặng nề về vấn đề giao tiếp và hội
nhập với cộng đồng xung quanh.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng ở giai đọan nhẹ thì 50% bệnh nhân
phải phụ thuộc trong các hoạt động SHHN, ở giai đoạn trung bình tỉ lệ 50 đến
80% và giai đoạn nặng là 100% phụ thuộc và cần trợ giúp.
Nếu dùng dụng cụ trợ giúp thì cần đánh giá đó là trợ giúp tối đa - trung bình
hay tối thiểu [32].
 độc lập: bệnh nhân có thể thực hiện kỹ năng một cách an toàn mà
không cần sự có mặt của bất kỳ người nào.
 Giám sát: bệnh nhân cần phải có ai bên cạnh. Mặc dù không trợ giúp gì
(VD: nhắc nhở bằng lời).
 Chạm tay: sự trợ giúp là chạm 2 tay vào người bệnh. Nhưng không có
sự hỗ trợ nào trong suốt thời gian thực hiện.
 Trợ giúp tối thiểu (trợ giúp Ýt): bệnh nhân có khả năng hoàn thành 1 số
động tác nhưng không cần trợ giúp.

15
 Trợ giúp trung bình: bệnh nhân cần trợ giúp trong toàn bộ hoạt động.
Nhận trợ giúp Ýt hơn 50%.

Đái tháo đường: Một sè nghiên cứu dọc cho thấy bệnh nhân đái tháo đường
có tăng nguy cơ SSTT và các bệnh thoái hoá [40], nó càng được khẳng định
trong các nghiên cứu phân tính tổng hợp gần đây [39].
Bệnh tim: Các bệnh về tim mạch làm tăng nguy cơ gây sstt và bệnh AD đặc
biệt ở những người bệnh có bệnh mạch ngoại vi [34].
Tăng lipid máu: Qua nghiên cứu [38] người ta thấy rằng có nhiều mối liên
quan giữa tăng cholesterol máu ở tuổi trung niên với bệnh AD khi về già.
Uống rượu và thuốc lá: Nhiều nghiên cứu cho thấy 2 yếu tố này không
những làm giảm sức khoẻ mà còn làm tăng nguy cơ bệnh AD khi về già
[35][39][50].
Chế độ ăn và các yếu tố dinh dưỡng: Một số nghiên cứu gợi ý có sự phối
hợp giữa chế độ ăn nhiều mỡ bão hoà với tăng nguy cơ bệnh AD [35].
Trong khi ăn nhiều cá và axit béo không bão hoà n-3 làm giảm nguy cơ bệnh
AD, cùng một nghiên cứu cho thấy những người ăn chế độ nhiều qủa và rau
(giàu E và Ca), giàu chất antioxidant làm giảm nguy cơ bị lại bệnh AD
[37][45][72].
Tình trạng viêm: trong nhiều nghiên cứu cho thấy sự phối hợp giữa marker
viêm với tăng nguy cơ sstt [60]. Ngoài ra dùng thuốc chống viêm thì thấy
giảm mắc bệnh AD, điều này cho thấy quá trình viêm có liên quan đến AD và
sstt [75], tuy nhiên việc sử dụng thuốc chống viêm để dự phòng bệnh AD đã
phải dừng vì thuốc làm tăng biến chứng tim mạch.
Tổng hợp các yếu tố nguy cơ mạch: Trong nhiều nghiên cứu gần đây thấy
các yếu tố nguy cơ mạch thường tồn tại song song với tuổi già và tỷ lệ bệnh

17
AD tuỳ theo số lượng các yếu tố nguy cơ [53].
3.1.2. Các yếu tố tâm lý xã hội và lối sống.
Rất nhiều nghiên cứu dịch tễ cho thấy học vấn, hoạt động xã hội, hoạt động
giải trí và hoạt động thể lực có vai trò quan trọng trong việc phát triển sstt và
đặc biệt là bệnh Alzheimer.

một số bệnh Alzheimer bị lắng đọng nhôm trong não.
Hội chứng Down: người bị chứng này sẽ bị Alzheimer khi sống đến 40 tuổi
và những bà mẹ sinh con bị Down sẽ có nguy cơ cao bị Alzheimer.
Ngoài ra các yÕu tè sau đây cũng được xem là một trong những nguyên nhân
dẫn đến bệnh sstt và mất trí nhớ ở người cao tuổi, gen di truyền, sù suy giảm
hormon sinh dục nữ, thiếu hụt vitamin nhóm B, trầm cảm, chÊn thương đầu,
nhóm người có điều kiện kinh tế kém.
3.2. Cơ chế bệnh sinh của bệnh Alzheimer
Vào năm 1906, Bác sĩ Alois Alzheimer đã phát hiện thấy những thay đổi
trong mô não của một phụ nữ bị chết vì một chứng bệnh tâm thần hiếm có,
ông đã tìm thấy trong não bệnh nhân những khối kết bất bình thường (mà nay
ta gọi là những mảng dạng tinh bét - amyloid plaques) và những bó rối bung
các sợi (mà nay chóng ta gọi là mớ rối tơ thần kinh - neurofibrillary tangles).
Ngày nay chính các mảng dạng tinh bột và các mớ rối tơ thần kinh này được
xem là dấu hiệu của bệnh Alzheimer [58].
Nguyên nhân bệnh AD được cho là sự hiện diện của các mảng protein dạng
tinh bét beta (Aư – protein Amyloid beta) bám ở não. Các đám rối của protein
(Tau) làm cho não bị tổn thương [125].
Với những tiến bộ đáng kể về y học, các nhà khoa học đã đi đến một kết
luận: Alzheimer là một bệnh thoái hoá hệ thần kinh trung ương rối loạn rất đa
dạng, do nhiều nguyên nhân gây ra, không đồng nhất về di truyền. Cơ chế

19
sinh bệnh không hoàn toàn giống nhau giữa các bệnh nhân
[13][114][115][116][117].
Bệnh Alzheimer còng liên quan đến sự xuất hiện của một protein gọi là beta
amyloid (không hòa tan nên tích tụ thành những mảng keo) nằm xung quanh
các tế bào thần kinh chết. Sự có mặt quá nhiều của beta amyloid sẽ làm giảm
chất trung gian dẫn truyền thần kinh acetylcholine cần thiết cho trí nhớ, beta
amyloid cũng ngăn chặn sự vận chuyển của ion, natri, kali, canxi.
Chết tế bào
- Di truyền (NST: 21, 14,1)
- Gen gây cơ địa dễ bị bệnh
(Apo E4 )
- yếu tố biểu sinh: (tuổi già, chấn
th-ơng sọ não,trí thông minh)
- Nhiễm độc (nhôm, gốc tự do)
- Nhiễm trùng (vius chậm)
Protein tiền chất
Amyloid (APP)
Đám rối sợi
soắn kép - Tau
a (a42)
Sự kết tập a

Chết tế bào

biến đổi mét số dấu Ên trong dịch não tuỷ để góp phần chẩn đoán sớm và tiên
lượng sstt, theo mét số tác giả, nồng độ Tau Protein trong dịch não tủy phản
ánh sự thoái hóa của thần kinh trung ương và có thể tăng trong giai đoạn sớm
của sstt [105][129][171]. Do quá trình thoái hoá thần kinh thường sảy ra
trước khi có biểu hiện lâm sàng một thời gian rất lâu nên nếu xác định được
nồng độ Tau của protein trong dịch não - tủy ở bệnh nhân có nguy cơ cao tiến
triển thành bệnh AD (như những bệnh nhân bị suy giảm nội tiết thể rối loạn
trí nhớ kèm theo có Gen Apo - E4) thì có thể hy vọng chẩn đoán sớm được
bệnh trước khi xuất hiện triệu chứng trên lâm sàng [171]. Theo Hampel
[104] nồng độ Tau protein phosphoryl hóa trong dịch não tủy tăng rất cao ở
bệnh nhân AD. So với một sè nguyên nhân gây sstt thường gặp khác. Chất p-
Tau protein 181 giúp chẩn đoán phân biệt bệnh AD với sstt thể lewy còn
nồng độ p-Tau protein 231 là yếu tố phân biệt rất đặc hiệu giữa bệnh AD với

24
sstt trán - thái dương [104].
Theo N.Andrea sen, nồng độ AB 42 giảm thấp kết hợp với nồng độ Tau-
protein tăng cao là yếu tố chẩn đoán xác định khá đặc hiệu với bệnh AD (với
độ đặc hiệu lên tới 90%) [47]. Tuy nhiên các nhà khoa học này khuyến cáo
rằng việc chẩn đoán xác định sstt phải là kết quả của sự kết hợp nhiều phương
pháp khác nhau như thăm khám lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm
dịch não tủy.
3.3. Tổn thương hình ảnh học trong bệnh Alzheimer (neuroimaging)
Các khoa học gia đã phát hiện là tổn thương của những vùng não liên quan
đến trí nhớ như hippocampus có thể được nhìn thấy trên não đồ nhấp nháy
(brain scan) trước khi bệnh phát tác. Một dự án nghiên cứu lớn gọi là AD
Neuroimaging Initiative (ADNI) đang được tiến hành để xem phép chụp hình
cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Imaging - MRI), phép chụp phát xạ
positron cắt lát (Positron Emission Tomography - PET) có thể phát hiện sớm
các biến đổi trong não và đo sự tiến triển của bệnh Alzheimer hay không


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status