tình hình mắc bệnh lao ở độ tuổi sinh đẻ (1845) và các yếu tố liên quan ở huyện thăng bình, tỉnh quảng nam, năm 2008 - Pdf 20


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh lao là bệnh xã hội, thuộc bệnh nhiễm khuẩn mãn tính, do trực
khuẩn lao (Mycobacterium Tuberculosis ). Ngoài ra, người ta còn phân lập
được một số Mycobacterium khác như trực khuẩn lao bò ( Mycobacterium
Bovis ) và các trực khuẩn không điển hình ( Mycobacterium atypique ) cũng
là nguyên nhân gây bệnh nhưng hiếm gặp [10].
Bệnh lao đã có từ lâu trước Công nguyên, nhưng sự hiểu biết về bệnh
lao trong một khoảng thời gian rất dài là hoàn toàn sai lầm. Người ta quan
niệm bệnh lao là một bệnh di truyền, do đó không có thuốc điều trị. Cho đến
năm 1882, Robert Koch mới tìm ra trực khuẩn lao, từ đó mở ra một kỷ
nguyên mới về chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa bệnh lao [18], [19].
Hiện nay, bệnh lao vẫn là một bệnh có tỉ lệ mắc và tử vong cao hàng
đầu trong các bệnh nhiễm trùng. Theo số liệu của tổ chức Y tế thế giới
(WHO) trên thế giới đã có khoảng 1/3 dân số nhiễm lao với số lượng xấp xỉ
trên 2 tỷ người. Trên thế giới hiện nay có 16 triệu người mắc lao, mỗi năm có
thêm 9 triệu người mắc lao mới và khoảng 2 triệu người chết vì lao. Bệnh lao
là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong các bệnh nhiễm trùng chỉ do một loại
vi trùng lao gây nên [3], [5], [16], [19]. Trong đó 99% số người chết do lao
thuộc các nước nghèo và đang phát triển. Hơn 70% số bệnh nhân lao trên thế
giới thuộc các nước Châu Á.
Ở nước ta, theo số liệu điều tra năm 1986-1995 thì chỉ số nguy cơ
nhiễm lao hằng năm được ước tính trong cả nước là 1,5% dân số. Số bệnh
nhân mới mắc các thể lao là 130.000 người, số lao phổi có vi trùng mới mắc
bệnh 60.000. Tổng số các trường hợp lao 260.000, trong đó lao phổi có vi

2
trùng 120.000. Việt nam là quốc gia đứng thứ 13 trong 22 nước có số người

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.DỊCH TỄ HỌC
1.1.1. Vi khuẩn lao
Vi khuẩn lao được được xếp vào họ Mycobacteriaceae .Họ này
bao gồm các trực khuẩn kháng cồn kháng toan, chúng có thể tồn tại trong môi
trường có nồng độ cồn và axít nhất định, chúng không bị mất màu khi tẩy
bằng cồn và axít loãng ở tiêu bản nhuộn ziehl- neelsen. Vi khuẩn lao là những
trực khuẩn hình que, mảnh, dài từ 2-4 m, thuộc loài vi sinh vật trung gian giữa
nấm và vi khuẩn. Chúng không có vỏ, không có lông và không có nha bào. Vi
khuẩn lao cấu tạo giàu Lipid ở thành tế bào, vì vậy chúng không bắt màu
thuốc nhuộn anilin thông thường và việc nhuộn Gram là không có hiệu quả.
Nhuộn Ziehl-Neelsen vi khuẩn có màu đỏ. Trực khuẩn lao thuộc loại hiếu khí,
chúng phát triển rất chậm, thông thường từ 1-2 tháng mới tạo được khuẩn lạc
trên môi trường .
Mặc dù trong điều kiện bình thường vi khuẩn lao phân chia 20-24 giờ
/lần, nhưng có nhiều chủng phát triển rất chậm chu kỳ hằng tháng, thậm chí
có những vi khuẩn trong một số loại tổn thương tồn tại rất lâu, không phát
triển cũng như không chết. Người ta gọi trường hợp này “BK nghủ “ gặp điều
kiện thuận lợi chúng phát triển trở lại .
Cấu trúc sinh hoá của trực khuấn lao rất đa dạng và phức tạp, có lớp vỏ
ngoài với những thành phần mycozyt, sulfatít, muramyl, dipeptit các axít . . .
Đây là một nguồn kháng nguyên rất phong phú, khiến cho trực khuẩn khi xâm
nhập vào cơ thể gây nên những đáp ứng miễn dịch rất khác nhau. Trực khuẩn
lao cũng có khả năng tổng hợp một hệ thống men rất phức tạp, có khả năng

4
sống trong đại thực bào gây tổn thương đặc hiệu gọi là bã đậu. Độc tính của
trực khuẩn lao cũng thay đổi khá nhiều theo từng vùng trên thế giới [23].

lành.

5
Hầu hết ( 90% ) các trường hợp nhiễm khuẩn lao là tiềm ẩn không triệu
chứng. 10% những người này trong cuộc đời họ sẻ tiến triển thành bệnh lao
có triệu chứng, nếu không điều trị thì có đến 50% người mắc lao tử vong [19].
1.1.3 Các chỉ số và yếu tố liên quan đến bệnh lao
Để nghiên cứu các yếu tố liên quan đến bệnh lao người ta thường xác
định các chỉ số chính của dịch tể học bệnh lao:
- Chỉ số mới mắc lao: Số bệnh nhân mới xuất hiện trong một năm, tính
trên một trăm ngàn dân ( 100.000 ). Bao gồm lao phổi AFB( + ), lao phổi
AFB ( - ), lao ngoài phổi. Chỉ số mới mắc lao phổi AFB( + ) là chỉ số dịch tể
chính để lương giá mức độ trầm trọng của bệnh lao.
- Chỉ số tổng số bệnh nhân lao (số hiện mắc ): Số bệnh nhân lao đang
được quản lý ở một thời điểm, tính trên 100.000 dân .
- Chỉ số tử vong lao: Số bệnh nhân lao chết tại cộng đồng, tính trên
100.000 dân. Chỉ số nhiễm lao: Tỷ lệ số người có phản ứng Tuberculin dương
tính trong một quần thể cùng một lứa tuổi ở một thời điểm điều tra .
- Chỉ số nguy cơ nhiễm lao hằng năm: Tỷ lệ số người mới bị nhiễm lao
hoặc tái nhiễm trong một năm [3], [8], [9].
Ngày nay, người ta nhận thấy một số nguyên nhân làm gia tăng bệnh lao:
- Do ảnh hưởng của đại dịch HIV.
- Đối với các nước công nghiệp phát triển có nguyên nhân của sự di dân
từ những nơi có độ lưu hành lao cao đến.
- Tình hình bùng nổ dân số thế giới khiến số bệnh nhân gia tăng.
- Các chính sách xã hội thiếu cụ thể và nền kinh tế kém phát triển kèm
theo hệ thống y tế chưa hoàn thiện là nguyên nhân làm gia tăng số bệnh nhân
và nguy cơ xuất hiện sự kháng thuốc [2], [15]. Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng

6

Mức độ bị bệnh lao
Dưới một tuổi
- Lao kê +
- Lao màng não + +
Từ 1 tuổi đến tuổi dậy thì
- Sơ nhiễm ở phổi +
- Lao lan tràn mãn tính
Ví dụ :
- Lao xương khớp +
- Lao kê +
- Lao màng não +

Thanh niên / người ít tuổi
Trung niên : - Nam
- Nữ
Tuổi già : - Nam
- Nữ
- Lao phổi + + +
- Lao phổi + +
+
- Lao phổi + +
- Lao phổi +
+
+
+
+ + +
+ + +
Môi trường xấu
+
Chủng tộc
+
Miễn dịch:
AIDS
Rượu
Thuốc lá
Các chất độc khác

+ + +
+
+
+

+ Dinh dưỡng: Người ta thấy rỏ ràng đói hoặc suy dinh dưỡng làm giảm
sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh lao. Đây là một yếu tố rất quan trọng
đối với trẻ em cũng như người lớn ở những nước nghèo.
+ Yếu tố độc hại: Hút thuốc và uống rượu nhiều là những yếu tố quan
trọng làm giảm sức đề kháng của cơ thể. Corticosteroid và những thuốc ức
chế miễn dịch khác cũng có thể ảnh hưởng tương tự.

9
+ Nghèo đói: Nghèo đói dẫn tới nhà ở chật chội tối tăm và điều kiện làm
việc vất vả, những yếu tố này có thể làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể,

- Người quản giáo, tội phạm sống trong trại giam [3], [16], [19].
1.2. PHÂN LOẠI CÁC LOẠI LAO
1.2.1. Lao phổi có AFB dƣơng tính (AFB(+))
+ Triệu chứng lâm sàng: Ho, khạc đàm, ho ra máu, khó thở, sốt, sút cân,
đổ mồ hôi, mệt mỏi, rét run
+ Cận lâm sàng: - Xét nghiệm đàm tìm thấy trực khuẩn lao (AFB(+))
- XQuang có hình ảnh tổn thương dạng lao
1.2.2. Lao phổi có AFB âm tính (AFB(-))
+ Triệu chứng lâm sàng: Tương tự như lao phổi có AFB dương tính
+ Cận lâm sàng: - Xét nghiệm đờm không tìm thấy trưc khuẩn lao
(AFB(+))
- XQuang có hình ảnh tổn thương dạng lao
1.2.3. Lao ngoài phổi
Gồm có:
- Lao đường hô hấp trên: Nắp thanh quản, thanh quản, hầu họng
- Lao miệng, amidan và lưỡi
- Lao màng não
- Lao màng ngoài tim
- Lao hạch
- Lao xương khớp
- Lao thận, tiết niệu
- Lao ruột, lao màng bụng
- Lao mắt
- Lao da và dưới da

11
+ Triệu chứng lâm sàng: Tùy lao tại cơ quan nào mà có các triệu chứng
lâm sàng khác nhau
+ Chủ yếu sinh thiết các cơ quan bị lao để chẩn đoán
1.3. TÌNH HÌNH BỆNH LAO TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM

dân số thế giới ). Theo số liệu công bố của tổ chức y tế thế giới (WHO 2004).
Ước tính trong năm 2003 có thêm khoảng 9 triệu người mắc lao mới và 2
triệu người chết do lao. Khoảng 95% số bệnh nhân lao và 98% số người chết
do lao ở các nước có thu nhập vừa và thấp, 75% số bệnh nhân lao cả nam và
nữ ở độ tuổi lao động. Trong đó có khoảng 80% số bệnh nhân lao toàn cầu
thuộc 22 nước có gánh nặng bệnh lao cao [2], [3], [18].
Hiện tại, tỷ lệ điều trị thành công trên toàn cầu đạt 82%, nhưng tỷ lệ
phát hiện chỉ đạt 37% số bệnh nhân ước tính. Như vậy còn rất nhiều bệnh
nhân lao không được điều trị, đang tiếp tục lây bệnh cho cộng đồng và theo
ước tính của WHO, mỗi năm có thêm 1% dân số thế giới bị nhiễm lao (66
triệu người ). Hơn 33% số bệnh nhân lao toàn cầu ở tại khu vực Đông nam
Châu Á.
Mức độ nặng nề của bệnh lao đã ảnh hưởng tới thu nhập của quốc gia
và chỉ số phát triển con người của các quốc gia. Các nghiên cứu về kinh tế y
tế cho thấy, mỗi bệnh nhân lao sẽ mất trung bình 3-4 tháng lao động trong
năm, làm giảm 20%-30% thu nhập bình quân của gia đình. Những gia đình có
người chết sớm vì bệnh lao có thể sẽ mất tới 15 năm thu nhập. Bệnh lao đã tác
động mạnh tới 70% đối tượng lao động chính của xã hội, làm lực lượng sản
xuất bị giảm sút, năng suất lao động bị giảm và mùa màng, chợ búa sẻ không
tham gia được.
Diễn đàn các đối tác chống lao lần thứ nhất diển ra năm 2001 tại trụ sở của
ngân hàng thế giới ở Washington DC với sự có mặt của đại diện cấp Bộ

13
Trưởng từ các quốc gia có tình hình bệnh lao nặng nề đã nhận định: Bệnh lao
là nguyên nhân chủ yếu làm nghèo đói dai dẳng và là sự trở ngại đối với phát
triển kinh tế xã hội [28].
Theo WHO đến cuối năm 2002, trên thế giới có 42 triệu người nhiễm
HIV, trong đó 50% đồng nhiễm lao. Ngày nay đại dịch HIV bùng phát lại
càng làm cho bệnh lao lại phát triển mạnh hơn nửa.

Bệnh lao là bệnh xã hội quan trọng vì có nhiều người mắc phải và chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế xã hội. Viện lao và bệnh phổi đánh giá lao
ở Việt Nam thuộc loại trung bình cao, trong số 36 nước ở khu vực Tây Thái

14
Bình Dương. Việt Nam đứng thứ 3 trong khu vực, sau Trung Quốc và
Philipines về số lượng bệnh nhân lao lưu hành cũng như bệnh lao mới xuất
hiện hằng năm.Việt Nam đứng thứ 13 trong 22 nước có số bệnh nhân lao cao
trên toàn cầu.
Năm 1995, trước những biến động xấu đi của tình hình dịch tể bệnh lao
toàn cầu. Công tác chống lao thực sự bắt đầu phải đối mặt với những thách
thức mới là bệnh lao kháng thuốc và lao-HIV. Chính phủ và bộ y tế Việt Nam
đã quyết định đưa chương trình chống lao thành một trong những chương
trình y tế Quốc gia quan trọng. Bộ y tế và chính phủ ưu tiên đầu tư đồng bộ số
lượng rất lớn cán bộ, kinh phí và trang thiết bị cho chương trình chống lao.
Ban chỉ đạo chương trình chống lao và chính quyền địa phương các cấp đã
tham gia tích cực triển khai công tác này, cùng với sự hợp tác và giúp đỡ có
hiệu quả về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức Quốc tế. Năm 1996 chương
trình chống lao quốc gia (CTCLQG) với sự hổ trợ về kỷ thuật và tài chính của
chính phủ Hà Lan, hiệp hội chống lao hoàng gia Hà Lan, uỷ ban hợp tác y tế
Hà Lan -Việt Nam, CTCLQG đã hình thành và xây dựng kế hoạch phòng
chống lao giai đoạn 1996-2002. Đến năm 1999, chiến lược DOTS (điều trị
bằng hoá trị liệu ngắn ngày có kiểm soát trực tiếp) đã được bao phủ 100% số
huyện trên cả nước. Trong giai đoạn 1997-2002 CTCLQG đã phát hiện được
532.703 bệnh nhân lao các thể, tỷ lệ phát hiện đạt 82% số bệnh nhân ước tính
(so với mục tiêu của WHO là 70%), CTCLQG đã điều trị 260.698 bệnh nhân
lao phổi AFB(+), với tỷ lệ khỏi là 92%. Năm 2002, khu vực Tây Thái Bình
Dương phát hiện 806.460 bệnh nhân lao các thể, 372.220 bệnh nhân lao phổi
AFB(+) mới.
Ngày thế giới chống lao 24/3/2004 tại diển đàn các đối tác chống lao


289/100.000 dân
102/100.000 dân 232.000
81.000
Tử vong do lao hằng năm
25,1/100.000 dân
20.800

Như vậy, hằng năm trong cả nước xuất hiện khoảng 154.000 người mắc
bệnh nhân lao các thể, trong đó có chừng 69.000 người bị lao phổi khạc ra vi
khuẩn lao. Ở nước ta 70% bệnh nhân lao trong độ tuổi lao động (14-55 tuổi),
số người chết do lao ước chừng 20.800 người một năm. Tỷ lệ mắc lao của trẻ
em nước ta là khoảng 60-61/100.000 trẻ, ước tính có khoảng 20.000 trẻ em
mắc lao mỗi năm, nhưng hiện nay chỉ điều trị khoảng 250-300 trẻ.

16
Bảng 1.5. Tình hình mắc lao ở Việt Nam (2000-2004), [26], [27], [28].

Năm

Tổng số
BN
Lao phổi
Lao ngoài
phổi

AFB(+)

6.676
17.106
16.218

Như vậy chương trình chống lao đã tổ chức được mạng lưới chống lao
rộng khắp, từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã. Đảm bảo tốt việc triển khai thực
hiện công tác phát hiện lao và tổ chức quản lý điều trị lao theo chiến lược
DOTS của WHO cho hơn 99% dân số trong toàn quốc hiện nay. Bệnh nhân
lao và gia đình phải tích cực hợp tác với chương trình chống lao, tuân thủ
đúng những nguyên tắc cơ bản về quản lý điều trị lao, để đạt tỷ lệ lành bệnh
cao, âm hoá nguồn lây lan trên 85% và tránh đừng để xãy ra bệnh lao đa
kháng thuốc. Thực hiện thành công chiến lược chống lao DOTS với phác đồ
hoá trị liệu ngắn ngày có kiểm soát, là biện pháp duy nhất và tốt nhất chúng ta
có được hiện nay đế ngăn chặn đại dịch lao cho nước ta nói riêng và cho toàn
thế giới nói chung đạt được kết quả mà WHO đã đề ra [10], [26], [27].
1.3.2.2. Tại tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam là một tỉnh còn nghèo, dân trí thấp với 18 huyện, thị thành,
trong đó có 8 huyện miền núi. Tổng dân số khoảng 1,5 triệu người, địa bàn
rộng nên công tác chống lao trong những năm qua gặp không ít khó khăn.
Tuy nhiên mạng lưới chống lao đã được trải rộng khắp toàn tỉnh. Ở Tỉnh có
bệnh viện lao và bệnh phổi, ở huyện có tổ chống lao, ở xã có chuyên trách

17
lao. Dân số được bảo vệ hoá ngắn ngày là 100%. Hằng năm số bệnh nhân
mới phát hiện là trên dưới 1.800 người, trong đó lao phổi AFB(+) khoảng
1.000 người, AFB(-) khoảng 400 người, lao ngoài phổi 400 người.
Bảng 1.6. Tình hình bệnh nhân lao phát hiện và điều trị tại Tỉnh Quảng Nam
qua các năm[1].
Năm
2006

Tổng
cộng
Mới
Tái
phát
Thất
bại
Đ.Trị
lại
1
Tam Kỳ
78
5
2
1
34
24
144
2
Hội An
36
4 18
16
74
3
Điện bàn
149

50
15
140
7
Phú Ninh
42
1
1
3
30
13
90
8
Đại lộc
76
5

1
31
33
146
9
Quế Sơn
62
1 18
21
102

N.Trà My
6
3
4
13
14
Nam Giang
8
1 2
2
13
15
Đông Giang
6
2

8
16
Tây Giang
3


16
40
Toàn tỉnh
801
64
4
11
355
293
1.550

1.3.2.3. Tại huyện Thăng Bình
Huyện Thăng Bình là một huyện đông dân, trên dưới khoảng 200.000
dân, với 22 xã, Thị trấn. Trong đó có 7 xã ven biển, 12 xã đồng bằng và trung
du, 3 xã miền núi. Điều kiện kinh tế còn khó khăn, nên huyện Thăng Bình
trong những năm qua là một trong những huyện có số bệnh nhân lao cao nhất
nhì tỉnh Quảng Nam. Công tác khám phát hiện thụ động là chính. Để khám
phát hiện có hiệu quả, huyện đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức
khỏe, nâng cao sự hiểu biết về bệnh lao trong nhân dân qua đài truyền thanh
huyện, xã, phát tờ rơi treo băng rôn biểu ngữ, xe cổ động tuyên truyền về
bệnh lao nhân ngày Thế giới phòng chống lao 24/3 hằng năm.
Công việc khám phát hiện bệnh lao được thực hiện từ huyện đến xã,
trạm y tế khi khám phát hiện bệnh nhân có triệu chứng về bệnh lao, sẽ chuyển
bệnh nhân về trung tâm y tế huyện khám phát hiện bệnh. Thông thường bệnh
nhân lao được phát hiện ở huyện khi AFB(+), còn các thể lao khác được phát
hiện ở tuyến trên lá chủ yếu. khi bệnh nhân phát hiện được bệnh lao, hoàn
chỉnh hồ sơ thu nhận điều trị và cấp phát thuốc về trạm y tế để điều trị ngoại

19
trú. hằng tháng bệnh nhân phải đến Tổ lao huyện để khám lại, xét nghiệm lại

phổi

64

54

46
Tổng số bệnh
nhân Lao/năm

255

276

271
Tổng số BN lao
phụ nữ(18-45)

72/255

79/276

76/271


2.2. PHƢƠNG PHÁP NGUYÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Áp dụng phương pháp nghiên cứu mô tá cắt ngang có phân tích [6], [7].
Tiến hành theo các bước như sau:
- Bước 1: Từ ngày 1/1/2008- 30/1/2008, thu thập số liệu như: tên, tuổi, địa
chỉ bệnh nhân mắc lao mới là phụ nữ độ tuổi 18-45 mà tổ chống lao huyện
quản lý.
- Bước 2: Từ 1/2/2008-30/5/2008 thiết kế bảng phỏng vấn bệnh nhân. Sau
đó đến các xã, phối hợp với chuyên trách lao tại xã đó, tiến hành thu thập số
liệu.
- Bước 3: Từ 1/6/2008-1/8/2008 tổng hợp số liệu, viết và hoàn thành luận văn.
2.2.2. Phƣơng pháp phát hiện chẩn đoán
Đa số bệnh nhân lao, khi thấy ốm yếu và ho khạc sẽ đến một cơ sở y tế:
Trạm y tế xã, Bệnh viện, Phòng khám tư để khám bệnh. Tuy nhiên họ sẽ
“Chỉ được chẩn đoán nếu được xét nghiệm đờm tìm vi khuẩn”. Như vậy gọi
là phát hiện thụ động. Phát hiện chủ động là khi người cán bộ y tế đến tận gia
đình yêu cầu người bệnh khạc đờm để xét nghiệm. Cách làm đó rất tốn kém
mà cho tỷ lệ dương tính ít hơn nhiều. Phát hiện thụ động kinh tế hơn, đó là
phương pháp phổ cập đối với đại đa số các chương trình chống lao quốc gia.
Quá trình phát hiện chẩn đoán lao phổi, được thực hiện theo sơ đồ sau:
22

chuyên khoa
Dùng kháng sinh phổ rộng
(không dùng thuốc lao)
Tình trạng
bệnh không
được cải
thiện
Tình trạng
bệnh được
cải thiện
(loại trừ lao)
Có bệnh lao
xét nghiệm đờm trực tiếp
(3 mẫu)
Điều trị lao phổi
dương tính
Điều trị lao phổi
âm tính
Có từ một tiêu bản
dương tính trở lên
Có 3 tiêu bản âm
tính
XQ và hội chẩn
chuyên khoa
Có bệnh lao
Không bệnh lao
Tìm hướng chẩn
đoán khác
Người có triệu chứng nghi lao


mủ [29].
- Lao xương khớp: Triệu chứng điển hình là đau tại chổ bị bệnh, hạn chế
vận động, nếu bệnh diển biến lâu ngày không điều trị có thể gây rò mủ tại
chổ, nếu bị lao cột sống có thể gây gù vẹo cột sống, liệt vận động Khám vị
trí tổn thương thấy cứng đờ, không mềm mại gõ vùng tổn thương thấy đau .
- Lao màng não: Có các dấu hiệu thần kinh, như đau đầu, nôn, táo bón,
nặng có thể hôn mê co giật.
2.2.2.2. Chẩn đoán bệnh lao
Có các phương pháp sau:
- Xét nghiệm đờm tìm vi khuẩn lao: Phương pháp chẩn đoán lao phổi
bằng xét nghiện đờm tìm vi khuẩn lao thích hợp nhất với các nước nghèo và
nước có thu nhập thấp. Khi bệnh nhân có các triệu chứng nghi lao đến khám,
cần lấy đờm đủ 3 lần để xét nghiệm tìm vi khuẩn.
+ Mẫu 1: Mẫu đờm tại chỗ lần 1. Khi bệnh nhân đến khám, cán bộ y tế
hướng dẫn bệnh nhân khạc đờm vào vào cốc đựng đờm sau khi đã súc miệng.
+ Mẫu 2: Sau khi kiểm tra chất lượng của mẫu đờm tại chỗ lấn 1, cán
bộ y tế giao cho bệnh nhân một cốc đờm đã ghi sẵn họ tên ở thành bên của
cốc, hướng dẫn bệnh nhân lấy đờm vào buổi sáng sớm hôm sau, trước khi đến
phòng khám lần 2.
+ Mẫu 3: Mẫu đờm tại chổ lần 2. Sau khi bệnh nhân mang mẫu đờm 2
tới phòng khám, bệnh nhân lấy thêm mẫu 3 dưới sự giám sát của cán bộ y tế.
Các mẫu đờm được chuyển càng sớm càng tốt tới phòng xét nghiệm và nhuộn
bằng phương pháp Ziehl-Neelsen. Nếu kết quả mẫu đờm 1 dương tính nhưng
bệnh nhân không đến trở lại phòng khám, cần bố trí cán bộ y tế tìm bệnh nhân
trở lại và điều trị dự phòng, chống lây lan trong cộng đồng và cải thiện tình
trạng bệnh.

25
Cần điều trị càng sớm càng tốt nếu kết quả xét nghiệm đờm dương tính
và cần chụp XQuang.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status