SKKN vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học vật lý nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh - Pdf 22

SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1.Cơ sở lý luận:
THCS là cấp học phổ cập nhằm nâng cao mặt bằng dân trí chuẩn bị đào tạo
nguồn nhân lực cho nền công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.Giáo dục THCS
không chỉ nhằm mục tiêu cho học sinh học lên THPT mà còn phải chuẩn bị cho sự
“phân luồng” sau THCS.Để đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội về con
người trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá, thời đại của nền kinh tế tri thức
thì mỗi con người cần có năng lực giải quyết vấn đề, phát huy tính sáng tạo, các
năng lực này có thể quy về năng lực tìm tòi phát hiện và tự giải quyết các vấn đề.
Để thực hiện mục tiêu trên từ năm học 2002 – 2003. Đảng và nhà nước đã
chỉ đạo Bộ giáo dục tiến hành thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp giảng
dạy ở tất cả các môn học cấp THCS trong đó có bộ môn Vật lý.
Đối tượng nghiên cứu của bộ môn Vật lý là thế giới quanh ta, Vật lý học là
môn khoa học thực nghiệm và là cơ sở của nhiều nghành khoa học, quan trọng nhất
là khi nền kinh tế tri thức phát triển như ngày nay kéo theo là các ngành khoa học
công nghệ phát triển như vũ bão. Vật lý có mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn, nhờ
có kiến thức Vật lý mà giải thích được các hiện tượng trong tự nhiên. Ngoài ra mối
liên hệ giữa Vật lý học và thực tiễn còn được thể hiện ở tính phổ dụng, toàn bộ và
nhiều tầng. Chính vì vậy việc giảng dạy bộ môn Vật lý co vai trò quan trọng góp
phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo ở cấp THCS. Việc dạy môn Vật
lý có khả năng to lớn trong việc hình thành và rèn luyện cho học sinh cách thức tư
duy, làm việc khoa học, giúp học sinh có ý thức thái độ, trách nhiệm với cuộc sống,
gia đình và xã hội góp phần vào việc thực hiện mục tiêu lớn của đất nước là “Dân
giàu, nước mạnh xã công bằng dân chủ văn minh”.
1
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
Dạy học Vật lý xét về mặt nào đó là dạy lại một ngôn ngữ, một ngôn ngữ đặc

có sẵn mà cần phải hướng dẫn học sinh trong các hoạt động để phát hiện và chiếm
lĩnh tri thức rèn luyện kỹ năng hình thành thói quen vận dụng kiến thức vật lý vào
học tập các môn khoa học khác và vào thưc tiễn. Dựa vào quy luật Vật lý để giải
thích đựơc các hiện tượng đa dạng và phong phú trong tự nhiên, tránh lối ghi nhớ
máy móc và tư duy kiểu đường mòn. Học sinh chuyển từ thói quen thụ động sang
tự học(chủ động) tích cực suy nghĩ và làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều. Bồi
dưỡng học sinh năng lực tự đánh giá để tự điều chỉnh phương pháp học tập của
mình.
Ngoài những ưu điểm dạy học truyền thống (như thuyết trình , đàm thoại,
trực quan, luyện tập, thực hành …) thì ngày nay có ba xu hướng dạy học hiện đại
đang được vận dụng rộng rãi và có hiệu quả, thích hợp với định hướng đổi mới
phương pháp dạy học đó là:
- Dạy học nêu và giải quyết vấn đề.
- Dạy học tổ chức hoạt động tập thể( hợp tác nhóm nhỏ)
- Dạy học sử dụng thiết bị và phương tiện dạy học.
2.Cơ sở thực tiễn
- Đối với phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học
Vật lý nói riêng luôn là đề tài được ngành giáo dục quan tâm và đông đảo các thầy
cô giáo tích cực hưởng ứng thực hiện và bước đầu đã gặt hái được những thành
công nhất định.
- Trong thực tế đổi mới chương trình SGK và áp dụng phương pháp dạy học
mới đã được triển khai trong toàn ngành giáo dục, tuy nhiên vẫn còn có một số giáo
viên do trình độ năng lực sư phạm còn bị hạn chế mà chưa thường xuyên quan tâm
vận dụng, sáng tạo trong các giờ lên lớp.
3
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
- Học sinh THCS có nhu cầu lớn trong giao tiếp, nhu cầu tiếp thu kiến thức
mới khao khát hoạt động chung và muốn được thể hiện năng lực của mình trước
bạn bè đặc điểm này thuận lợi cho việc giáo viên sử dụng phương pháp dạy học

1.Hoạt động nghiên cứu tài liệu, xác định mục tiêu bài dạy( về kiến thức, kỹ
năng, thái độ), chuẩn bị giáo án, đồ dùng trực quan, dụng cụ thiết bị thí nghiệm, các
phương tiện và điều kiện thực hiện cho một tiết dạy.
2.Hoạt động nghiên cứu phương pháp dạy phù hợp với loại bài dạy, từng đơn
vị kiến thức trong bài, hệ thống câu hỏi phù hợp với phương pháp đã lựa chọn và
phù hợp với phương án đề ra.
3. Đối chứng với phương pháp, phương án thông thường, phân tích ưu,
nhược của phương pháp đã được vận dụng một cách sáng tạo vào tình huống và bài
dạy cụ thể.
4.Tổ chức tốt hoạt động nhóm, phân tích xử lí các dữ liệu, thông tin thu thập
được bằng thực nghiệm để rút ra nhận xét, kết luận và hình thành kiến thức mới.
5. Khai thác tối đa tiềm năng về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và đồ
dùng thí nghiệm Vật lý sẵn có và tự làm.
6. Xây dựng tốt phương pháp tự học, tự nghiên cứu, phương pháp thực hành
thí nghiệm và kiểm chứng các quy luật Vật lý đã biết.
7. Đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm và đề xuất ý kiến với các cấp, các
ngành liên quan trên tinh thần đổi mới và vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học
5
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
Vật lý, xác định rõ các vấn đề cần giải quyết nêu trên, tôi xin trình bày những nội
dung cụ thể thông qua bài “Sự nổi” (Vật lý 8).
I. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN
* Xác định mục tiêu:
Người giáo viên muốn vận dụng tốt các phương pháp dạy học để đạt được
kết quả cao trong một giờ dạy thì yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất là phải xác
định rõ mục tiêu bài dạy. Khi nghiên cứu mục tiêu bài dạy phải hình dung rõ là sau
khi học xong bài , học sinh phải có những kiến thức, kĩ năng, thái độ gì, ở mức độ
nào? Theo hướng phát huy vai trò chủ thể, tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh thì mục tiêu đặt ra là: cho học sinh, do học sinh thực hiện, chính học sinh

Hai đơn vị kiến thức trên đều yêu cầu học sinh nắm được cả ở dạng định tính
và định lượng cùng với các yêu cầu khác về kỹ năng và thái độ, tôi đã lựa chọn
phương pháp giảng dạy chủ yếu sau đây:
+ Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.
+ Phương pháp tập dượt nghiên cứu.
+ Phương pháp sử dụng thiết bị thí nghiệm.
+ Phương pháp dạy học hợp tác nhóm nhỏ.
Ngoài ra còn kết hợp xen kẽ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp dạy
học truyền thống như: đàm thoại, thuyết trình, luyện tập thực hành…khi hệ thống
và khái quát hoá truyền đạt kiến thức.
7
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
Sau khi xác định mục tiêu, hệ thống kiến thức và lựa chọn phương pháp
giảng dạy thì tôi xây dựng hệ thống câu hỏi, giáo án chi tiết lôgic theo trình tự:
*Xác định các công việc chuẩn bị cho dạy học:
- Máy chiếu.
- Giấy trong in sơ đồ hình 12.1 không có ghi chú; nội dung câu hỏi C
2
.
- Giấy trong in nội cung câu hỏi C
2
, C
9
và nội dung phần ghi nhớ trong sách
giáo khoa.
- Bảng phụ bằng giấy rô-ki ghi nội dung bài tập C
2
cho 3 nhóm (mỗi nhóm
thực hiện yêu cầu với một trường hợp).

bài thì thông thường chỉ kiểm tra học sinh viết công thức tính lực đẩy Ac-si-met.
Như đã biết, nguyên nhân gây ra sự thay đổi trạng thái của vật là do có lực tác dụng
(hoặc hợp lực tác dụng). Trong trường hợp vật chịu sự tác dụng đồng thời của hai
lực tác dụng có cùng điểm đặt, cùng phương, ngược chiều và khác nhau về độ lớn
thì kết quả là vật chuyển động theo hướng của hợp lực. Phần kiểm tra bài cũ yêu
cầu 2 học sinh (HS) lên bảng trình bày:
HS1: Viết công thức tính lực đẩy Ac-si-met (Giải thích kí hiệu và ghi rõ đơn
vị từng đại lượng)?
HS2: (Giáo viên chiếu câu hỏi trên máy chiếu)
Điền từ thích hợp vào dấu “….”
1.Hai lực cân bằng là hai lực……… , có……….điểm đặt, cùng……….,
………. chiều,………độ lớn.
Khi hai lực cân bằng tác dụng lên vật gây ra kết quả là vật………….
2.Khi hai lực có cùng điểm đặt, cùng phương, ngược chiều và độ lớn khác
nhau tác dụng lên một vật thì kết quả là vật sẽ…………… theo chiều của lực có độ
lớn…………
9
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
Với hai câu hỏi trên, ngoài tác dụng kiểm tra kiến thức bài học cũ, riêng câu
hỏi điền từ thích hợp vào dấu…. giúp học sinh ôn lại kiến thức có liên quan trực
tiếp đến bài học (tương tự nội dung câu hỏi C
2
) và giải thích câu hỏi C
2
một cách
đầy đủ, đúng bản chất và nguyên nhân gây ra hiện tượng vật lơ lửng (đứng yên),
vật chìm xuống (chuyển động xuống dưới) và vật nổi lên (chuyển động lên trên bề
mặt chất lỏng).Trong thực tế một số năm học trước tôi không kiểm tra nội dung câu
hỏi của HS 2 thì cho thấy khi giải thích hiện tượng vật chuyển động lên, xuống hay

Trên cơ sở hướng dẫn trong sách giáo khoa và thông qua phần đố vui giữa
hai học sinh đã được quan sát hiện tượng thực tế và dẫn đến một bế tắc không giải
thích được, giáo viên đã nêu và gieo động cơ học tập cho học sinh.Bằng một hệ
thống câu hỏi vừa mang tính tự khám phá vừa có tính lôgíc chặt chẽ đã phát huy
được các phẩm chất trí tuệ của học sinh từ mức đơn giản (vấn đề rất thực tế) đó là
cảm tính của học sinh được quan sát, cảm nhận qua các cơ quan cảm giác là mắt,
tay đến nhận thức ở mức cao hơn là lí tính (dự đoán, suy luận). Điều thú vị là ở
chỗ: bằng dự đoán, suy luận từ kiến thức đã biết dẫn đến một bế tắc- tức là vấn đề
cần tiếp tục phải giải quyết và dường như có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này tự học sinh
tìm ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên và mâu thuẫn đó không nằm ngoài
mâu thuẫn cơ bản, đặc trưng của quá trình dạy học đó là mâu thuẫn giữa:
+ Một bên là kiến thức theo yêu cầu nội dung và mục tiêu học tập đối với
học sinh.
11
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
+ Một bên là khả năng nhận thức thế giới quan và mức độ phát triểncủa các
phẩm chất trí tuệ (quan sát, suy luận, khái quát hoá, trừu tượng hoá…) còn hạn chế
của học sinh.
Liên tục những câu hỏi, những dự đoán tưởng như lôgíc, chặt chẽ với học
sinh xong lại dẫn đến một mâu thuẫn đặt học sinh trước một tình huống cần phải
giải quyết.Điều đáng lưu ý là mâu thuẫn đó chính học sinh tự khám phá, tự tìm ra
và tự ý thức được trách nhiệm, nhu cầu của mình là phải tự giải quyết mâu thuẫn đó
làm động lực cho quá trình học tập của bản thân được vận động theo xu hướng phát
triển lên.
Qua thực tế khi chưa cải tiến và vận dụng sáng tạo phương pháp truyền
thống (đàm thoại, trực quan) và phương pháp mới (dạy học nêu và giải quyết vấn
đề), trước đây chỉ đơn điệu một phương pháp thuyết trình là máy móc và nguyên
tắc là giáo viên đọc nguyên mẫu, đối thoại hoặc cho học sinh đọc sách giáo khoa
thì một giờ học rất nặng nề, đơn điệu ngay từ những giây phút ban đầu. Điểm hạn

động lên vật phải cân bằng:
F
A
= P
Tới đây, học sinh lại hay mắc sai lầm về giá trị độ lớn của lực đẩy Ac-si-met
trong khi áp dụng công thức F
A
=d.V. Học sinh thường cho V là thể tích của vật mà
không thấy V chỉ là thể tích của phần vật chìm trong chất lỏng.
Trên cơ sở xác định trọng tâm kiến thức, những sai lầm mà học sinh hay mắc
phải, tôi tập trung xoáy vào hai đơn vị kiến thức mà yêu cầu học sinh cần nắm vững
để sau này vận dụng, đó là:
+ Khi vật nằm yên, các lực tác dụng vào vật phải cân bằng.
+ Khi vật nổi trên mặt chất lỏng thì F
A
= d.V với V là thể tích của phần chìm
trong chất lỏng.
Để đạt được yêu cầu đó, tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp: đàm thoại (để
dự đoán, phát hiện, giải thích, suy luận….), trực quan (để phát hiện, củng cố, kiểm
chứng và rèn kỹ năng thực hành), tập dượt nghiên cứu (để suy luận, giải thích….),
13
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
luyện tập (để nâng kỹ năng vận dụng, thực hành giải thích các hiện tượng thường
gặp trong tự nhiên). Cụ thể là: thông qua hệ thống câu hỏi:
- Ở câu hỏi C1: Giáo viên chiếu lên màn hình sơ đồ hình 12.1
GV: Một vật ở trong lòng chất lỏng chịu tác dụng của những lực nào?
HS: Lực đẩy Ac-si-met và trọng lực của vật.
GV:Phương và chiều của hai lực đó thế nào?Một em lên bảng biểu diễn hai
lực đó vào sơ đồ (Học sinh lên vẽ sơ đồ và biểu diễn lực).

14
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
ngược chiều và độ lớn khác nhau (P > F
A
nên vật chuyển động xuống dưới theo
chiều của trọng lượng P).
Vẫn bằng hình thức vấn đáp tương tự, giáo viên yêu cầu hai nhóm tiếp tục
giải thích các hiện tượng quan sát được đối với hai vật trong hai trường hợp còn
lại.Sau đó kết luận điều kiện để vật nổi lên, vật chìm xuống và vật lơ lửng trong
lòng chất lỏng.
Thông thường, sau khi tìm xong 3 điều kiện ứng với 3 trạng thái của vật,
giáo viên thường chuyển ngay sang đơn vị kiến thức mới mà không cho học sinh
kiểm nghiệm lại những kết luận nêu trên. Đối với Vật lí là một khoa học thực
nghiệm thì việc tiến hành các thí nghiệm kiểm chứng không những củng cố vững
chắc cho học sinh niềm tin khoa học mà còn giúp các em có những kỹ năng thực
hành cần thiết và giáo dục các em ý thức cũng như niềm đam mê nghiên cứu khoa
học, nhất là các lĩnh vực khoa học gắn liền với thực tế, với thế giới quan mà học
sinh thấy gần gũi xung quanh mình.Từ ý thức đó, ngoài đạt được tiêu dạy chữ, giáo
viên đã giáo dục được phẩm chất, nhân cách cần thiết cho học sinh.Trên quan điểm
như vậy, sau khi kết luận 3 điều kiện ứng với 3 trạng thái của vật, tôi tiến hành tổ
chức học sinh làm thí nghiệm kiểm chứng và vận dụng kiến thức trên để giải thích
hiện tượng trong thí nghiệm.Cụ thể là bằng hình thức sau:
Giáo viên yêu cầu các nhóm làm thí nghiệm:
Dụng cụ mỗi nhóm gồm: 1 bình nước trong, 3 viên bi có cùng thể tích nhưng
khác về chất liệu: 1 viên bi sắt, 1 viên bi gỗ và 1 quả bóng bàn chứa đầy nước (có
trọng lượng bằng trọng lượng riêng của nước, giáo viên đã kiểm tra trước độ
chính xác).
Giáo viên yêu cầu các nhóm làm thí nghiệm (đảm bảo ngăn nắp, sạch sẽ, an
toàn), quan sát hiện tượng với 3 viên bi và giải thích lần lượt từng hiện tượng.Sau

suy nghĩ 3 phút.Yêu cầu học sinh tìm ra đáp án đúng và giải thích nguyên nhân.
Qua thực tế cho thấy học sinh tính lực đẩy Ac-si-met rất hay nhầm lẫn khi
vật ở hai trạng thái: trạng thái thứ nhất là vật đang nổi lên (lúc này thể tích của vật
vẫn nhúng chìm trong lòng chất lỏng), trạng thái thứ hai là vật nổi lên trên mặt
thoáng của chất lỏng (lúc này thể tích của vật chỉ có một phần bị nhúng chìm trong
lòng chất lỏng) vì vậy lực đẩy Ac-si-met ở trường hợp 1 lớn hơn lực đẩy Ac-si-met
ở trường hợp 2.Qua thực tế đó phải rút ra được lưu ý khi làm bài tập.
16
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
Đối với giáo viên phải khai thác sâuđể học sinh phân biệt được sự khác nhau
giữa hai trạng thái đó của vật.Có thể có nhiều cách để giúp học sinh nhanh chóng
nhận thức ra điều đó và phần đặt vấn đề chuyển sang mục II tôi đã vận dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học để khắc phục những sai lầm của học sinh.
Sau khi hoàn thành câu hỏi C5, giáo viên tổ chức cho học sinh làm thí
nghiệm theo nhóm để củng cố cách tính F
A
khi vật nổi.Tiến hành làm như sau:
Dụng cụ : 1 bình nước trong.
1 miếng gỗ và một miếng xốp có cùng thể tích.
Tiến hành: Thả miếng gỗ và miếng xốp vào bình nước.
GV: Nêu hiện tượng xảy ra với miếng gỗ và miếng xốp, chúng có điểm gì
giống và khác nhau?
HS: Giống nhau là chúng đều nổi.
Khác nhau là thể tích phần chìm trong nước của miếng gỗ nhiều hơn của
miếng xốp.
GV: So sánh lực đẩy Ac-si-met tác dụng lên miếng gỗ và miếng xốp?Giải
thích?
HS: Lực đẩy Ac-si met tác dụng lên miếng gỗ lớn hơn lực đẩy Ac-si met tác
dụng lên miếng xốp vì thể tích phần chìm trong nước của miếng gỗ lớn hơn thể tích

:Giáo viên hướng dẫn hoạt động nhóm.Bằng
suy luận và phép biến đổi đại số học sinh dễ dàng chứng minh được các điều kiện:
P > F
A
khi và chỉ khi d
v
>d
l
P < F
A
khi và chỉ khi d
v
< d
l
GV (đặt vấn đề): Như vậy nếu không cần thả vật vào chất lỏng, muốn biết
vật nổi, chìm hay lơ lửng ta căn cứ vào yếu tố nào?
HS: Căn cứ vào giá trị d của vật và giá trị d của chất lỏng.
GV: Dựa vào bảng giá trị trọng lượng riêng của một số chất, áp dụng kết quả
của câu C
6
trả lời các câu hỏi sau:
Giáo viên treo bảng 4 (giá trị trọng lượng riêng của một số chất).
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc các câu hỏi C
7
, C
8
sau đó gọi học sinh lần
lượt trả lời.
Giáo viên chiếu lên màn hình câu hỏi C
9

(vì d
muối
> d
nước
) do đó miếng gỗ ở bình nước chìm nhiều hơn miếng
gỗ ở bình nước muối.
Với kiến thức bài học này, phạm vi vận dụng để giải thích rất nhiều các hiện
tượng trong thực tế.Giáo viên có thể gợi động cơ học tập cho học sinh bằng một số
câu hỏi thêm, chẳng hạn như:
1/ Tại sao ta thường chữa các đám cháy bằng nước lã, nhưng khi gặp đám
cháy do xăng, dầuthì người ta lại không dùng nước lã?
2/ Trong lịch sử các em đã được biết chuyện về nhân tài đất Việt giải một bài
toán đố của sứ thần phương Bắc có nội dung là: Một cây gỗ dài đã được cắt không
19
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
còn phân biệt được ngọn và gốc.Làm thế nào để tìm được đâu là ngọn, đâu là gốc
của cây?
III.KẾT QUẢ THU ĐƯỢC
1.Đánh giá chung
Cũng dạy bài này trong năm học 2005-2006 tại lớp 8A nhưng chưa có sự đầu
tư suy nghĩ sâu sắc và sự vận dụng linh hoạt, sáng tấo các phương pháp dạy học thì
nhìn chung tôi nhận thấy đó là một giờ học còn mang nặng tính máy móc,từ khâu
nghiên cứu tài liệu ,chuẩn bị điều kiện cho giờ dạy đến phương án thiết kế và kết
quả thu được mới đạt ở mức hạn chế,chưa đáp ứng được muc tiêu bài dạy. Điều đó
thể hiện rõ nhất là kết quả tiếp thu kiến thức của học sinh .Mặc dù sách giáo khoa
mới được biên soạn với kết cấu nội dung kiến thức và trình bày khoa học hơn, song
điều quan trọng nhất vẫn là phương pháp mà giáo viên vận dụng như thế nào cho
phù hợp với đối tượng học sinh cụ thể, với điều kiện thực tế của trường về cơ sơ
vật chất trang thiết bị dạy học . Một giờ dạy mà học sinh không hăng hái phát biểu

lớp Vật lý: 8A; 8B sau khi dạy song bài này ở hai lớp tôi đã kiểm tra khảo sát chất
lượng và kết quả học tập của học sinh với đề bài có cấu trúc và mức độ yêu cầu
tương tự năm học 2005 -2006 thì kết quả là
Loại điểm
Lớp
Giỏi Khá TB Yếu Kém
8A 10% 15% 72% 3% 0%
8B 10% 16% 72,5% 1,5% 0%
21
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
Mục đích của hạot động dạy và học đều hướng tới kết quả học tập của học
sinh, hiệu quả giờ lên lớp cao hay thấp thể hiện qua kết quả học tập của học sinh.
Tuy nhiên kết quả đó còn phụ thuộc nhiều yếu tố nhưng căn bản là phụ thuộc vào
phương pháp dạy học của giáo viên. Kết quả giờ dạy trên đây cho tôi thấy việc vận
dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học trong một tiết dạy có ý
nghĩa quyết định cho kết quả học tập môn Vật lý và cần thiết nên mạnh dạn có
những sáng tạo hơn mà từ phương pháp dạy và học đi đôi với khảo sát chất lượng
kịp thời.
IV/ NHỮNG TỒN TẠI:
- Học sinh cấp THCS nói chung và học sinh lớp 8 nói riêng đang ở lứa tuổi
mới lớn, rất hăng hái nhiệt tình trong công việc, song tính bền bỉ cũng như tính kiên
trì còn nhiều hạn chế. Các em còn hiếu động: dễ tập trung song cũng dễ phân tán tư
tưởng, tâm lý chưa ổn định, nhận thức xã hội hạn chế dẫn đến yếu và thiếu về động
cơ học tập.
- Môn học Vật lý là môn học thực nghiệm, trong quá trình học tập, phải tiến
hành thí nghiệm, phải đòi hỏi tính cẩn thận và khéo léo nhưng với học sinh khối 8
còn khá vụng về khi thao tác thực hành. Việc rèn luyện học sinh có kỹ năng làm thí
nghiệm và đảm bảo an toàn khi làm thí nghiệm còn gặp nhiều khó khăn.
- Phòng học bộ môn hơi xa địa điểm một số lớp, ra chơi và chuẩn bị chỉ có 5

bảo độ chính xác, an toàn.
- Tăng cường tổ chức hợp tác nhóm nhỏ để nhiều nhóm cùng hoạt động,
ngăn chặn các biểu hiện cẩu thả chủ quan.
- Thay đổi hình thức kiểm tra đánh giá học sinh.
23
SKKN: Vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học Vật lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh
- Bản thân giáo viên luôn có ý thức cầu tiến , tích cực học hỏi nâng cao tay
nghề.
VI/ NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
- Giáo viên chủ nhiệm, các tổ chức Đoàn - Đội, Ban giám hiệm nhà cùng
phối hợp với phụ huynh học sinh tăng cường giáo dục hơn nữa về ý thức tổ chức
hoạt động tập thể cho học sinh, chú ý giáo dục động cơ học tập cho học sinh. Gia
đình quan tâm hơn nữa tới con em mình bằng cách mua sắm đầy đủ dụng cụ đồ
dùng học tập theo yêu cầu và hướng dẫn cuộc giáo viên.
- Ban giám hiệu tạo điều kiện khắc phục, bổ sung một số đồ dùng thí nghiệm
còn thiếu hoặc độ chính xác chưa đạt yêu cầu.
PHẦN III: KẾT LUẬN CHUNG.
Mục tiêu giáo dục con người là hoàn thiện nhân cách con người mới Xã hội
chủ nghĩa thông qua quá trình giáo dục và tự giáo dục. Từ đó ngoài nhiệm vụ
truyền thụ kiến thức, giáo viên cần chú ý cung cấp cho các em phương pháp tự học,
và giáo dục động cơ học tập cho học sinh. Vật lý học là một môn học có tính thực
nghiệm và tính liên hệ với thực tế rất cao, nó phản ánh thế giới khách quan khá
rộng rãi và sớm tiếp cận đến học sinh thông qua quan sát thực tế. Vật lý cũng là
một môn học khá trừu tượng, phản ánh các hiện tượng tự nhiên, phong phú, đa
dạng đòi hỏi người học phải có phẩm chất trí tuệ, đạo đức, tính cần cù, chăm chỉ,
có thói quen quan sát, so sánh, khái quát, phân tích, tổng hợp…Từ đặc thù đó của
bộ môn và đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THCS mà yêu cầu giáo viên cần có sự
lựa chọn phương pháp như thế nào? Việc đổi mới, vận dụng sáng tạo phương pháp
dạy học không chỉ một ngày, hai ngày…hay một giờ dạy… mà là việc làm thường

25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status