tóm tắt luận án tiến sĩ hiệu quả của bổ sung đa vi chất dinh dưỡng và tẩy giun ở trẻ em 12-36 tháng tuổi suy dinh dưỡng thấp còi, người dân tộc vân kiều và pakoh huyện đakrông, tỉnh quảng trị - Pdf 22

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
TRN TH LAN
chất lợng lao động của đội ngũ trí thức
giáo dục đại học ViệT NAM hiện nay
Chuyờn nganh : Ch ngha xó hi khoa hc
Ma sụ : 62 22 85 01
tóm tắt Luận án tiến sĩ triết học
Hà Nội - 2014
Công trình đợc hoàn thành
tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Ngời hớng dẫn khoa học: GS.TS hoàng chí bảo
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp
tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại: Th viện Quốc gia
và Th viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức và cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đã không những xác định vị trí của con
người ở hàng đầu trong lực lượng sản xuất mà còn định hình ngày càng rõ
hơn vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn lực trí tuệ đối với việc phát triển
nội lực của mỗi quốc gia, dân tộc.
Việt Nam đang ở thời kỳ bước ngoặt của phát triển với việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bối cảnh của thế giới và thời đại đang mở ra
những triển vọng, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đồng thời cũng đặt nước
ta trước nhiều nguy cơ, thách thức nghiệt ngã trên tiến trình hội nhập, trong

cũng là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của cơ sở đào
tạo đại học Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập quốc tế, trước
những kỳ vọng của xã hội vào sự cách tân từ các chủ thể giáo dục, từ chương
trình, phương pháp giáo dục đại học mà mục đích cao nhất là cải biến chất
lượng nguồn nhân lực được đào tạo. Đây là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là
công việc khó khăn, phức tạp, tốn kém nhiều công sức, thời gian, tâm lực, trí
lực và tiền bạc.
Trên một bình diện cao hơn, thuộc về trách nhiệm, lương tâm xã hội, quan
tâm đến chất lượng lao động của trí thức GDĐH là chăm lo cho sự nghiệp
đào tạo nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Để đảm bảo độ tin cậy cho chiến lược
phát triển, bền vững của quốc gia cần thiết phải tìm ra khâu đột phá từ tiềm
lực của con người trên cái giá đỡ vật chất của sự phát triển kinh tế. Cơ sở để tạo
nên nguồn lực trí tuệ không thể nằm ngoài GDĐH mà mấu chốt là ở chất lượng
lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo.
Chỉ với cái nhìn biện chứng như vậy mới thấy hết tầm quan trọng và tính
bức thiết vì sao phải đổi mới GDĐH, bắt đầu từ những cải biến trong chất
lượng lao động của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như các thế hệ giảng viên
đại học. Luận giải, khảo sát vấn đề này để tìm giải pháp phát triển không chỉ
có ý nghĩa lý luận mà còn góp phần thực hiện chủ trương kiểm định chất
lượng các trường đại học theo hệ tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhằm “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI của Đảng.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Chất lượng lao
động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay” làm đề tài
luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Xác định một quan niệm có tính hệ thống về chất lượng lao động của trí
thức GDĐH để xây dựng luận cứ khoa học đánh giá thực trạng vấn đề này ở
Việt Nam, qua đó đề ra những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về trí thức, trí thức giáo dục, trí thức GDĐH; về vấn đề lao
động và động lực lao động nói chung.
Luận án còn kế thừa hợp lý những kết quả nghiên cứu có liên quan đến luận
án của các tác giả trong và ngoài nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời chú trọng sử dụng phương
pháp logic - lịch sử cùng các phương pháp có tính liên ngành như phân tích, tổng
hợp, điều tra xã hội học, so sánh, khái quát hoá.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề chất lượng lao động của trí
thức GDĐH dưới góc độ triết học - chính trị - xã hội - giáo dục.
- Luận án xây dựng tiêu chí đánh giá đối với chất lượng lao động của trí
thức GDĐH trong hoạt động nghề nghiệp.
- Luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong điều kiện của đổi
mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trước tác động của xu thế hội
nhập, toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức.
4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần phát triển hướng nghiên cứu mới về lý luận và thực tiễn
đối với vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam từ sự
kết hợp cách tiếp cận triết học - chính trị - xã hội và giáo dục.
- Luận án góp phần củng cố vững chắc luận cứ khoa học làm cơ sở cho
việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác trí
thức GDĐH trong điều kiện mới.

điểm lao động của trí thức GDĐH, tiêu biểu là:
Bài viết “Đặc điểm lao động của giáo viên đại học và dạy nghề”, Tạp chí
5
Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 5/2000 của Tác giả Đỗ Văn Phức chủ
yếu nhấn mạnh đến lao động sáng tạo, lao động trí óc, với một số yếu tố độc
hại và những căng thẳng đặc thù của trí thức GDĐH.
Xác định tính chất lao động của trí thức GDĐH, PGS, TS Nguyễn Thị Mỹ
Lộc và TS Đặng Xuân Hải với chuyên đề “Người dạy ở bậc đại học và giao
tiếp sư phạm”, “Phương pháp dạy học ở bậc đại học” trong tài liệu bồi
dưỡng “Giáo dục học đại học”, Hà Nội, 2003 đã đưa ra quan niệm: Ở đại
học, sự sáng tạo sư phạm đi liền với sự sáng tạo khoa học”.
PGS, TS Phạm Hồng Quang - tác giả cuốn sách “Môi trường giáo dục”, Nxb
Giáo dục, 2006 khẳng định: chức năng lao động sư phạm là tái sản xuất sức lao
động cho xã hội; đó là dạng thức lao động trí óc chuyên nghiệp.
Khi luận giải “Bản chất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu khoa
học” (tài liệu nghiên cứu), Hà Nội, 2006, GS, TS Hoàng Chí Bảo nhấn mạnh,
GDĐH gắn liền giảng dạy với NCKH và phục vụ sản xuất. Lao động của trí
thức GDĐH thể hiện rõ tính sáng tạo với những sắc thái biểu hiện phong
phú, đa dạng và phức tạp của nó.
Tiếp cận đặc điểm của GDĐH, TS Nguyễn Bá Cần với Luận án tiến sĩ Kinh
tế: “Hoàn thiện chính sách phát triển Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay”, Hà
Nội, 2009 đã cho rằng, sản phẩm dịch vụ GDĐH có tính đặc thù - đó là những
người công dân có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia.
Ba là, những công trình nghiên cứu bước đầu đề cập đến chất lượng lao
động của trí thức GDĐH, đáng chú ý là:
Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, mã số:
QGTĐ.02.06: “Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng
dạy đại học và NCKH của giảng viên trong Đại học Quốc gia” do GS, TS
Nguyễn Đức Chính và PGS, TS Nguyễn Phương Nga chủ trì và đã nghiệm
thu; Báo cáo“GDĐH và kỹ năng cho tăng trưởng”, 2008 của Phòng Phát

người giáo viên”, Nxb Giáo dục, 1979; Franz Emanuel Weinert : “Sự phát triển
nhận thức học tập và giảng dạy”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998; Đặc biệt,
UNESCO đã tổ chức những hoạt động tập trung trí tuệ nhân loại suy nghĩ về
một nền giáo dục cho thế kỷ XXI mà đỉnh cao là “Higher Education in the
Twenty - First Century - vision and Action”, World Conference on Higher
Education, Paris, October, 1998. Tổng hợp những công trình nghiên cứu nêu
trên đã xác định một quan điểm mới về đặc điểm lao động của trí thức nhà giáo
ở bậc đại học. Theo đó, chất lượng GDĐH được hình dung là một khái niệm đa
chiều, bao trùm mọi chức năng và hoạt động của nhà trường.
1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC
LÀM SÁNG TỎ
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án, tác giả xin
đưa ra những đánh giá khái quát như sau:
Một là, các công trình nghiên cứu đã vạch ra một hệ thống phương pháp
tiếp cận về trí thức và trí thức GDĐH. Đáng chú ý là những quan điểm xem
trí thức như một lực lượng xã hội, một nhóm xã hội - nghề nghiệp được nhận
diện và phân định bởi tính chất lao động trí óc, sáng tạo và phức tạp.
Hai là, những nghiên cứu lý luận về trí thức, trí thức GDĐH là khá phong
phú nhưng chưa có công trình nghiên cứu chuyên khảo hay các đề án,
chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, chưa có luận án, luận văn
nào trực tiếp đi sâu luận giải một cách có hệ thống về vấn đề chất lượng lao
động của trí thức GDĐH ở Việt Nam.
Ba là, dưới các góc độ, bình diện, phạm vi nghiên cứu khác nhau, những
công trình nghiên cứu đã đề cập đến đặc điểm lao động của giảng viên ở từng
khía cạnh cụ thể, chủ yếu luận bàn đến chức trách, nhiệm vụ, đối tượng, công
cụ tác động, tính chất lao động của giảng viên và nhà khoa học.
Bốn là, trên bình diện chất lượng lao động của trí thức GDĐH, những công
7
trình nghiên cứu đã công bố chủ yếu chỉ chú trọng đánh giá nhiệm vụ giảng viên

2.1. QUAN NIỆM VỀ TRÍ THỨC, TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ LAO
ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
2.1.1. Quan niệm về trí thức
Trí thức là một thuật ngữ, một khái niệm khoa học với những hàm nghĩa
khác nhau. Theo đó, khi xem xét quan niệm về trí thức đòi hỏi phải chú ý đến
tính lịch sử - cụ thể và giác độ tiếp cận. Thống nhất với quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức, chúng tôi cho
rằng, trí thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao
8
động trí óc, sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc
phát kiến, giữ gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận
thức khoa học và sự tiến bộ của xã hội.
Cần nhận diện trí thức ở một số đặc trưng nổi trội sau: Trí thức không phải
là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội đặc biệt và đặc thù; trí thức cần
được xem như một cá thể - chủ thể mang nhân cách sáng tạo; học vấn, học
thức của người trí thức được gây dựng qua đào tạo, được bồi dưỡng và phát
triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, tự trau dồi và hoàn thiện của
cá nhân trong lao động và hoạt động sáng tạo; với trí thức chân chính, hiểu
biết phải gắn liền với cống hiến; lý tưởng chính trị và trách nhiệm xã hội phải
được biểu hiện thông qua lý tưởng nghề nghiệp, qua hoạt động chuyên môn
đặc thù, gắn bó sâu nặng với Tổ quốc và nhân dân.
2.1.2. Quan niệm về trí thức giáo dục đại học Việt Nam
Trí thức GDĐH Việt Nam là một lực lượng xã hội hay một nhóm xã hội -
nghề nghiệp đặc thù, tiêu biểu của trí thức; là chủ thể của hoạt động sư phạm
trong lĩnh vực GDĐH, có nhiệm vụ giảng dạy; NCKH, ứng dụng, chuyển giao
công nghệ; tổ chức, quản lý hoạt động sư phạm nhằm cao dân trí, đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ cao và phát triển nhân tài cho đất nước.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, vai trò, nhiệm
vụ của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam ngày càng được định hình rõ nét:
Một là, trí thức GDĐH Việt Nam phải trực tiếp gắn kết đào tạo với NCKH, liên

thể xem dạy chữ - dạy người - dạy nghề là ba hoạt động thống nhất trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
Thứ tư, cần xem lao động của trí thức GDĐH, trước hết là lao động cá nhân
nhưng chính đặc thù nghề nghiệp đã mang lại và đòi hỏi một cách nghiêm
ngặt tính tập thể, tính phổ biến, tính tương tác và đồng thuận.
2.2. TÍNH ĐẶC THÙ CỦA LAO ĐỘNG TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
2.2.1. Lao động của trí thức giáo dục đại học là lao động trí óc, sáng tạo
Lao động của trí thức GDĐH trước hết là lao động trí óc. Tính đặc thù
trong lao động của họ biểu hiện ở việc thường xuyên phải huy động trí lực,
phát huy sức sáng tạo của tư duy, ở hàm lượng chất xám cao kết tinh trong
sản phẩm. Đó là những phát minh, sáng chế, sáng kiến, thậm chí là nhân cách
người học, là trình độ, kỹ năng lao động của nguồn nhân lực.
Nếu như sáng tạo trong giảng dạy của trí thức GDĐH là năng lực hệ thống
hóa, kế thừa, lựa chọn thông tin gắn với các thao tác phân tích, tổng hợp,
diễn giảng làm cho người học lĩnh hội và thâu thái tri thức thì sáng tạo trong
NCKH là đi tìm cái mới, đưa ra kiến giải mới hay một đề xuất mới đóng góp
vào vấn đề mà Lênin gọi là hạt chân lý của nhận thức.
Với tư cách là khoa học dùng người, hoạt động lãnh đạo, quản lý giáo dục
của trí thức GDĐH cũng là lao động trí óc, sáng tạo. Nó đòi hỏi chủ thể lãnh
đạo, quản lý phải khéo léo sử dụng tài năng, trí tuệ và tình cảm, bằng những
phương pháp khoa học, tư duy sáng tạo mới có sức thuyết phục trong việc
điều hành các hoạt động lao động của cả tập thể nhà giáo đại học.
2.2.2. Lao động của trí thức giáo dục đại học là lao động sư phạm bậc cao
Cốt lõi để phân biệt tính đặc thù này biểu hiện ở chức năng nghề nghiệp, ở
mục tiêu, phương thức lao động, tập trung trong yêu cầu phát triển trí tuệ,
hình thành năng lực tư duy, kỹ năng lao động cho nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh
CNH, HĐH, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức. Điều này đòi hỏi

triển nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước
Cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đều tất yếu đòi hỏi trường đại học cần trở
thành nơi tiêu biểu cho đời sống trí tuệ và văn hóa tinh thần của xã hội. Đó là
những vườn ươm các tài năng khoa học tương lai, là cái nôi nuôi dưỡng
những trí tuệ khoa học thuộc nhiều thế hệ. Bằng tài năng, sự cống hiến và
cách thức riêng của mình, mỗi trí thức nhà giáo cần tham gia vào quá trình
sản xuất tri thức, kiến tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao của nước mình
từ mặt bằng chung tới mỗi nấc thang phát triển của nó để từng bước đáp ứng
những đòi hỏi khắt khe của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự lớn mạnh của đội ngũ trí thức GDĐH nước ta cùng với sản phẩm
11
lao động của họ sẽ là nguồn bổ sung trực tiếp, lớn nhất để phát triển đội ngũ
trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước.
2.3. QUAN NIỆM VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG VÀ CHẤT LƯỢNG LAO
ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
2.3.1. Quan niệm về chất lượng lao động
Tính nhiều mặt, nhiều cấp độ, tính chất đa nghĩa của phạm trù “chất lượng
lao động” về mặt phương pháp luận đòi hỏi phải nghiên cứu nó từ quan điểm
toàn diện, từ phương pháp tổng hợp và hệ thống. Theo chúng tôi, chất lượng
lao động là khái niệm dùng để chỉ mức độ thỏa mãn, khả năng đáp ứng các
tiêu chí, yêu cầu đặt ra của một công việc cụ thể nào đó. Chất lượng lao động
bao hàm trong bản thân nó hàng loạt các yếu tố, truớc hết là sự thỏa mãn, đáp
ứng, sự trùng khớp giữa kết quả lao động thực tế với nhu cầu, mong muốn của
các chủ thể hay mục tiêu định sẵn và những tiêu chuẩn xác định.
Chất lượng lao động của bất kỳ chủ thể nào cũng phản ánh giá trị lao động
thực tế của mỗi cá nhân. Trên phạm vi rộng lớn hơn, nó còn góp phần tạo
thành tấm gương phản chiếu giá trị lao động của toàn xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định.
2.3.2. Quan niệm về chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục
đại học

Đánh giá chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cần tập trung vào
các tiêu chí cơ bản sau:
Một là, mức độ đáp ứng tiêu chuẩn nhà giáo của đội ngũ trí thức GDĐH.
Hai là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ trí thức GDĐH theo chức
trách được giao.
Ba là, kết quả lao động thực tế của trí thức GDĐH.
Bốn là, mức độ hài lòng của giảng viên, sinh viên và các chủ thể sử dụng sản
phẩm GDĐH đối với kết quả lao động của đội ngũ trí thức GDĐH.
Năm là, khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực được đào tạo đối với thị
trường lao động. Tiêu chí này được lượng hóa ở tỷ lệ có việc làm của sinh
viên sau khi tốt nghiệp, ở chất lượng lao động của nguồn nhân lực được đào
tạo đại học.
2.4. TÍNH TẤT YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
2.4.1. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học Việt Nam là đòi hỏi tất yếu từ yêu cầu phát triển của đất nước
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với mục tiêu giải phóng
và phát triển con người, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội dựa trên cơ sở
của khoa học và công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức, cùng với đó là sức ép nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế đòi hỏi GDĐH phải cung ứng cho xã hội nguồn
nhân lực chất lượng cao. Chỉ có thể đảm bảo được yêu cầu ấy, nếu chất
lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH được nâng cao với tư cách là
điều kiện căn bản, có ý nghĩa quyết định trực tiếp chức năng sản xuất, tái
sản xuất ra “hàng hoá” với sản phẩm đặc biệt - con người trí tuệ để đáp ứng
nhu cầu phát triển của đất nước.
2.4.2. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học là yêu cầu nội tại của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo đục
dại học ở Việt Nam hiện nay
Có thể nói, ở bất cứ cơ sở đào tạo đại học nào, chất lượng giáo dục yếu

nhiệm vụ của mình. Xét đến cùng, nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ
trí thức GDĐH được xem như tâm điểm không chỉ gắn bó các yếu tố của
giáo dục trong một chỉnh thể mà còn quyết định trực tiếp đến hiệu quả sử
dụng các nguồn lực của GDĐH.
Chương 3
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Mức độ đáp ứng tiêu chuẩn nhà giáo của đội ngũ trí thức giáo
dục đại học Việt Nam hiện nay
Cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta và sự mở rộng qui mô đào
tạo nguồn nhân lực, đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đã không ngừng được
14
bổ sung lực lượng, nâng cao về chất lượng, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn
theo luật định về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về năng lực và phẩm chất
đạo đức nhà giáo, qua đó hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, NCKH, giữ gìn
danh dự, uy tín, bồi dưỡng phẩm chất, chính trị và đạo đức nghề nghiệp.
Tuy nhiên, tỷ lệ trí thức nhà giáo đại học chưa đạt chuẩn về trình độ
chuyên môn theo luật định (do không qua đào tạo bậc sau đại học) vẫn chiếm
38,75%. Hơn nữa, tình trạng thiếu hụt thế hệ cán bộ kế cận có trình độ cao
đang tạo ra sự mất cân đối về cơ cấu lứa tuổi, trình độ và tính kế tục của đội
ngũ trí thức GDĐH. Thêm vào đó, tình trạng phai nhạt lý tưởng, xuống cấp
về đạo đức cộng với những biểu hiện lao động hình thức, tắc trách ở một bộ
phận không nhỏ giảng viên chưa được khắc phục không chỉ gây ảnh hưởng
xấu tới danh dự, uy tín nhà giáo mà còn hạn chế chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
3.1.2. Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học Việt Nam hiện nay

ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực góp phần quan trọng tạo nên sự
tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội
nhập quốc tế. Hàng năm, đội ngũ trí thức GDĐH đã trực tiếp tham gia đào
tạo hàng chục nghìn cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ góp phần quan trọng vào việc
thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Kết quả NCKH, lãnh đạo, quản lý
của đội ngũ trí thức GDĐH đã góp phần nâng cao trình độ khoa học, công
nghệ của đất nước, góp phầnquan trọng vào việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bước đầu giải đáp những vấn đề
mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới.
Hạn chế chủ yếu trong kết quả lao động của trí thức GDĐH ở nước ta là
chất lượng giáo dục còn thấp; đào tạo phi chính quy còn nhiều yếu kém; việc
đổi mới nội dung, chương trình đào tạo ở các trường đại học chưa theo kịp
yêu cầu của thực tiễn sản xuất; hiệu quả ứng dụng của những công trình khoa
học chưa cao, với khoảng 40% kết quả nghiên cứu phải “trùm mền”; sự quản
lý của đội ngũ trí thức GDĐH còn nhiều bất hợp lý, biểu hiện chủ yếu ở tình
trạng còn thụ động trước sự chỉ đạo của cấp vĩ mô dẫn đến hạn chế tính tự
chủ, sáng tạo trong hoạt động giáo dục và đào tạo.
3.1.4. Mức độ hài lòng của giảng viên, sinh viên và các chủ thể sử
dụng sản phẩm GDĐH đối với kết quả lao động của đội ngũ trí thức nhà
giáo đại học ở nước ta hiện nay
Mặc dù mức độ hài lòng của sinh viên và giảng viên về kết quả lao động
của trí thức GDĐH đạt tỷ lệ cao với trên 70% ý kiến biểu lộ sự hài lòng.
Riêng kết quả đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
còn không ít ý kiến phản hồi thể hiện sự trăn trở và chưa hài lòng. Điều
này lý giải tại sao có tới 60% doanh nghiệp được khảo sát tỏ ra không hài
lòng về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở các trường đại học.
3.1.5. Khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực được đào tạo đối với thị
trường lao động
Có thể khẳng định, đội ngũ trí thức GDĐH thông qua lao động nghề

hẫng, chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín đủ sức cạnh tranh trên
phạm vi toàn cầu. Không chỉ yếu ngoại ngữ, trí thức GDĐH ở nước ta còn
thiếu năng lực sáng tạo ở mức độ cần thiết để tạo ra những sản phẩm, những
công trình khoa học có thể cạnh tranh bình đẳng với đồng nghiệp quốc tế.
3.2.2. Sự mất cân đối về cơ cấu trong chất lượng lao động của trí thức
giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
Yêu cầu tạo lập tính đồng thuận trong đội ngũ trí thức GDĐH đòi hỏi phải
tạo ra sự tiếp nối, kế tục, tác động cùng chiều tới đối tượng người học từ
những giảng viên khác nhau về tuổi đời, thâm niên, trình độ, năng lực, học
hàm, học vị, thậm chí là những nhà giáo ở các chuyên ngành đào tạo khác
nhau, rộng hơn là ở các vùng, miền trong cả nước. Đáng tiếc là thực trạng
chất lượng lao động của trí thức GDĐH đang tỏ rõ sự bất cập trước yêu cầu
tạo lập tính đồng thuận của toàn đội ngũ. Đó là tình trạng mất cân đối trong
cơ cấu về trình độ, năng lực, trong kết quả lao động của đội ngũ trí thức
GDĐH giữa các vùng, miền, giữa các ngành và lĩnh vực đào tạo ; thêm vào
đó là sự hẫng hụt nghiêm trọng đội ngũ kế cận có trình độ cao.
17
3.2.3. Trí thức giáo dục đại học cần kết hợp giảng dạy và nghiên cứu
khoa học trong khi khuynh hướng xem nhẹ nghiên cứu khoa học đang
diễn ra phổ biến
Theo kết quả điều tra xã hội học, có 61,1% ý kiến cho rằng, phần lớn
giảng viên chỉ chuyên tâm vào hoạt động giảng dạy. Số liệu này phù hợp
với đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo: “có đến 50 - 60% giảng viên
không dành hoặc dành rất ít thời gian làm NCKH”. Không ít giảng viên
chọn cách tăng thu nhập bằng cách giảng dạy, thậm chí sẵn sàng dạy nhiều
để bù vào số tiết bị khấu trừ do thiếu giờ NCKH hơn là tự nguyện say mê
nghiên cứu. Đây là biểu hiện đáng báo động về hiện trạng của đội ngũ trí
thức GDĐH nước ta trong quá trình triển khai chương trình đào tạo gắn
giảng dạy với nghiên cứu, gắn lý thuyết với thực tiễn, đào tạo theo nhu cầu
xã hội và định hướng nghề nghiệp.

3.2.5. Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học được
đảm bảo bởi trách nhiệm của nhà giáo nhưng cơ chế kiểm tra, giám sát,
đánh giá chưa được coi trọng đúng mức
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực nghiên cứu là nhân tố quyết
định chất lượng lao động của trí thức GDĐH, song tinh thần trách nhiệm
cũng là yêu cầu quan trọng mà mỗi trí thức nhà giáo phải quan tâm đáp ứng,
nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi cơ chế thị trường đang chi phối đến đời
sống của con người và tác động mặt trái của nó cũng để lại không ít những
tiêu cực và hệ lụy xã hội. Vấn đề bất cập hiện nay là tiêu chí kiểm định chất
lượng giáo dục chưa được xây dựng phù hợp với những đặc thù nhất định ở
từng trường; hoạt động đánh giá ngoài, nhất là sự tham gia kiểm định chất
lượng đào tạo từ các chủ thể sử dụng sản phẩm của GDĐH chưa được coi
trọng đúng mức. Việc đánh giá, kiểm tra, giám sát hoạt động chuyên môn
của hiệu trưởng và cán bộ quản lý từng trường đại học còn bỏ ngỏ nên chất
lượng tổ chức, lãnh đạo, quản lý giáo dục của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước
ta chưa được xem xét, đánh giá toàn diện và khoa học. Cơ chế sa thải những
giảng viên yếu kém chưa trở thành yếu tố căn bản trong văn hóa và khoa học
lãnh đạo, quản lý giáo dục. Điều này lý giải tại sao trí thức GDĐH chưa nhận
thấy áp lực thực sự từ trách nhiệm và bổn phận của một nhà giáo, nhà khoa học
trước những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cũng như sự mong đợi, kỳ vọng
của xã hội.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học phải gắn với nhu cầu phát triển đất nước
Để đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao phục vụ quá trình đẩy mạnh

nay, ngoài việc chuẩn hóa về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo qui định
của Điều lệ trường đại học, cần đặt vấn đề chuẩn hóa năng lực sử dụng ngoại
ngữ và tin học của trí thức GDĐH vào giảng dạy, NCKH, lãnh đạo, quản lý
giáo dục như một yêu cầu cấp thiết.
Chuẩn hóa trí thức GDĐH về phẩm chất đạo đức đòi hỏi phải chú trọng
đến lòng yêu người, yêu nghề; thái độ tích cực, tự giác, trách nhiệm trong lao
động của mỗi nhà giáo.
Chuẩn hóa chất lượng lao động của trí thức GDĐH cần hướng vào việc
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo giáo dục theo định hướng
nghề nghiệp, theo nhu cầu xã hội.
4.1.3. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
phải trên cơ sở hình thành thái độ lao động tích cực của mỗi nhà giáo
Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH phụ thuộc rất nhiều vào
thái độ tích cực, tự giác, tận tâm của mỗi nhà giáo mà nếu thiếu nó, lao động
sư phạm sẽ trở nên nhàm chán, thụ động, gượng ép và kém hiệu quả. Nâng
cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH phải trên cơ sở hình
thành và củng cố bền vững thái độ lao động tích cực của mỗi giảng viên cũng
như từng cán bộ quản lý giáo dục.
20
Trên cương vị là lực lượng thực hiện sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao cho đất nước, trí thức GDĐH hình thành, phát triển thái độ lao
động xã hội chủ nghĩa với tư cách là lao động tự giác, tích cực, sáng tạo. Đây
là thái độ lao động đúng đắn đảm bảo ở mức độ cao của sự phù hợp với cách
tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG
CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Thống nhất và nâng cao nhận thức của toàn xã hội về chất
lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Thống nhất nhận thức của toàn xã hội từ sự thấu hiểu giá trị lao động của
trí thức GDĐH là tiền đề khoa học, tư tưởng quan trọng hàng đầu, là động

21
tâm trong khâu này là việc tinh giản, sàng lọc, làm mới những tri thức đảm
bảo tính hiện đại, tránh tình trạng quá tải, trùng lặp đã được đặt ra như một
đòi hỏi khoa học trong qui trình hiện đại hóa nội dung giảng dạy.
Hiện đại hóa phương pháp giáo dục - đào tạo ở bậc đại học cần thiết được
xem là điểm cốt yếu, là khâu then chốt để một mặt, thanh toán tình trạng lạc
hậu của các phương pháp giáo dục cũ, mặt khác để khoa học hóa, trí tuệ hóa
phương pháp mới, lấy học trò làm trung tâm. Vấn đề cấp bách hiện nay là
cần chấm dứt tình trạng các trường đại học sư phạm lạc hậu về nội dung,
phương pháp giảng dạy so với thực tiễn.
Hiện đại hóa GDĐH còn bao hàm đổi mới và nâng cao chất lượng, trình độ
của các thiết chế giáo dục. Không chỉ tập trung hiện đại hóa trường học, thư
viện, phòng thí nghiệm, các phương tiện thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập
mà cần thiết phải hiện đại hóa hoạt động tổ chức, quản lý trí thức nhà giáo và
xây dựng thiết chế “GDĐH mở” theo hướng tăng cường hoạt động hợp tác
quốc tế.
4.2.4. Tạo chuyển biến căn bản trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ trí thức giáo dục đại học đáp ứng chuẩn nghề nghiệp
Mục tiêu chủ yếu của công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH là tạo ra
sự biến đổi ở mỗi giảng viên về kiến thức, kỹ năng và thái độ, hướng tới xây
dựng đội ngũ giảng viên thực lực, thực tài. Đặc biệt, cần thiết phải quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng các chuyên gia đầu ngành, các trí thức tinh hoa, các tập thể
khoa học sư phạm, tập trung đào tạo tài năng trẻ với sự đầu tư đủ mạnh các
nguồn lực của nhà nước - một vấn đề thuộc về trách nhiệm không thể lơ là để
tạo nên nguồn lực trí tuệ GDĐH ở tầm chiến lược trong tương lai.
Đi đối với đổi mới nội dung cần tạo sự chuyển biến trong phương pháp đào
tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH theo hướng đa dạng hóa các loại hình: tập huấn
cập nhật kiến thức, hội thảo chuyên đề, đào tạo tập trung và không tập trung,
chính qui và không chính qui, bồi dưỡng dài hạn và ngắn hạn, đào tạo trong
nước kết hợp với đào tạo ở các cơ sở đại học danh tiếng trên thế giới.

giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục trong tổng thể các hoạt động sư phạm.
Do vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu, xây dựng và ban hành
chuẩn chất lượng lao động của trí thức GDĐH , bổ sung và thực hiện
nghiêm túc tiêu chí đánh giá ngoài gồm các cơ quan, doanh nghiệp, công ty
sử dụng sản phẩm của GDĐH, các đơn vị đánh giá độc lập, những cơ sở đào
tạo khác ở trong nước và quốc tế theo thang điểm cụ thể, đặc biệt cần thiết phải
ấn định bằng con số hay thứ hạng để phản ánh một cách tường minh chất lượng
lao động của trí thức GDĐH.
KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đại đang phát triển như vũ
bão; toàn cầu hóa diễn ra sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực, tác động sâu xa đến
sự phát triển của các quốc gia dân tộc. Các nước, dù với chế độ chính trị khác
nhau đều phải chủ động xác định chiến lược phát triển cho riêng mình một
cách phù hợp mới mong tránh khỏi nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua toàn
cầu. Đối với Việt Nam trên hành trình mở cửa và hội nhập, đẩy nhanh tốc độ
phát triển để vươn tới một nước công nghiệp, đòi hỏi phải phát huy hết thảy
mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ và chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức nhà giáo ở bậc đại học. Đây là về một vấn đề vốn chứa đựng tính
phức tạp, nhạy cảm, khó đo lường. Qua nghiên cứu, tác giả luận án rút ra một
số nhận định khái quát sau:
23
1. Trí thức GDĐH là lực lượng nòng cốt trực tiếp tham gia vào quá trình
đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần quan
trọng vào việc thực hiện “ba đột phá”, trong đó có đột phá xây dựng nguồn
nhân lực và điển hình là nguồn nhân lực chất lượng cao của quốc gia, dân
tộc; không chỉ trực tiếp tham gia phát triển khoa học - công nghệ mà còn
đem tài năng, sáng tạo, nhiệt huyết xây dựng các luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là các chính
sách GDĐH.
2. Lao động của trí thức GDĐH là lao động nghề nghiệp chuyên môn, đó

không chỉ để đáp ứng đòi hỏi của khoa học sư phạm mà còn được hối thúc
bởi những thời cơ, thách thức do thời đại và thời cuộc đặt ra.
5. Lao động của đội ngũ trí thức GDĐH trước yêu cầu phải thực hiện


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status