đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân đái tháo đường type 2 ngoại trú tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu bệnh viện bạch mai - Pdf 22

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn chuyển hóa glucid mạn tính
mang tính chất xã hội trên thế giới cũng như Việt Nam. Trong những năm gần
đây ĐTĐ là một trong ba bệnh không lây (ung thư, tim mạch, ĐTĐ) phát triển
nhanh nhất, bệnh được xem là đại dịch ở các nước đang phát triển. Theo IDF,
trên thế giới tính đến năm 2011 hiện có khoảng 266,2 triệu người mắc bệnh
ĐTĐ, điều này vượt xa tất cả các dự đoán của các chuyên gia trước đây và
đây là vấn đề ám ảnh của ngành y tế các nước trong đó có Việt Nam. Dự báo
đến năm 2030 sẽ có khoảng 551,9 triệu người [1].
Trong số các bệnh nhân ĐTĐ thì ĐTĐ type 2 có tỷ lệ 85 - 95% [2]. Bệnh
tiến triển âm thầm, từ từ gây ra nhiều biến chứng mạn tính nguy hiểm để lại di
chứng nặng nề thậm chí tử vong.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng bệnh nhân ĐTĐ nếu được quản lý tốt sẽ
giảm đáng kể các biến chứng và tỷ lệ tử vong [3],[4]. Một số nước trên thế
giới như Pháp, Mỹ quản lý bệnh nhân ĐTĐ được tổ chức theo mô hình hội
bệnh nhân ĐTĐ, câu lạc bộ bệnh nhân ĐTĐ, phòng giáo dục tư vấn – giáo
dục bệnh nhân ĐTĐ tại bệnh viện và cộng đồng. Các hình thức này đạt kết
quả tốt, phát hiện sớm bệnh đái tháo đường, giảm thiểu được các biến chứng,
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh, giảm chi phí điều trị [5],[6].
Qua nghiên cứu của Diabcare 1998 – 2003 tại Việt Nam cho thấy thực
trạng quản lý ĐTĐ ở nước ta còn kém, mức glucose máu và HbA1c còn cao
do đó xảy ra nhiều biến chứng nặng nề cho bệnh nhân [7],[8]. Đã có nhiều mô
hình giáo dục bệnh nhân như các câu lạc bộ ĐTĐ quản lý bệnh nhân ĐTĐ của
các khoa nội tiết. Tuy nhiên mô hình này còn chưa được áp dụng rộng rãi dẫn
đến hậu quả là việc quản lý ĐTĐ còn chưa tốt. Mức kiểm soát glucose máu và
HbA1c còn cao, biến chứng có xu hướng tăng lên. Sự hiểu biết về bệnh ĐTĐ,
cách thức phòng bệnh còn rất hạn chế: 78,8% các đối tượng được phỏng vấn
không hiểu về yếu tố nguy cơ gây bệnh ĐTĐ, 76,5% không biết gì về các
2
biện pháp phòng bệnh. Trong số 21,2% và 23,5% số người được xem là có

Năm 2003 số người mắc bệnh ĐTĐ đã lên 170 triệu người, trong đó ĐTĐ
type 2 là 165,7 triệu người [9]. Dự đoán năm 2030 sẽ có 551,9 triệu người
mắc ĐTĐ, trong đó người mới mắc sống ở các nước thu nhập thấp và trung
bình [1]. Tỷ lệ ĐTĐ type 2 cao nhất ở châu Mỹ và các đảo Thái Bình Dương,
tiếp theo là người Mỹ gốc Mêhico, người Mỹ gốc Ấn Độ, rồi người Đông
Nam Á, người Mỹ gốc Phi [9].
Ở Việt Nam ĐTĐ đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng theo sự phát
triển của kinh tế thị trường cũng như tốc độ đô thị hóa. Năm 1990, lần đầu
tiên có nghiên cứu dịch tễ học bệnh ĐTĐ được tổ chức một cách tương đối
khoa học, kết quả tỷ lệ ĐTĐ ở Hà Nội là 1,2%, thành phố Hồ Chí Minh là
2,52% [9]. Năm 2002 theo Nguyễn Huy Cường và cộng sự điều tra trên 3508
người trên 16 tuổi ở Hà Nội, tỷ lệ ĐTĐ là 2,45% [11]. Năm 2002 điều tra trên
phạm vi toàn quốc của viện nội tiết, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở lứa tuổi 30 – 64 là
2,7% [9].
Tại hội nghị lần thứ 6 của Hiệp hội Đái tháo đường quốc tế khu vực Thái
Bình Dương, bệnh ĐTĐ được xem là “kẻ giết người thầm lặng”. Một người ở
4
lứa tuổi 40 – 49 được chẩn đoán ĐTĐ type 2 sẽ mất đi trung bình là 10 năm
sống [9]. Ở Mỹ hàng năm có tới 80% người mù mới do ĐTĐ, 50% BN suy
thận giai đoạn cuối phải lọc máu chu kỳ, khoảng 60% BN đái tháo đường có
tăng HA, 50% số BN cắt cụt chi là do hậu quả vết loét bàn chân biến chứng
của ĐTĐ [12],[13],[14].
Hàng năm thế giới đã phải chi một khoản khá lớn cho điều trị ĐTĐ.
Năm 1997 thế giới chi phí 1.030 tỷ đô la Mỹ cho điều trị ĐTĐ. Tại Nhật Bản
năm 1998 chi 16,94 tỷ USD cho ĐTĐ. Tại Việt Nam ước tính hiện nay chi
phí cho bệnh ĐTĐ là 606.251.000 đôla, dự kiến đến năm 2025 tăng lên
1.114.430 [15]. Ở Việt Nam gánh nặng chi trả của bệnh ĐTĐ chủ yếu cho các
biến chứng của bệnh. Do đó vấn đề cấp bách đặt ra là phải quản lý tốt BN đái
tháo đường để giảm tỷ lệ các biến chứng.
1.2. CHẨN ĐOÁN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG [16],[17]

ĐTĐ type 2 thường kín đáo, bệnh thường được chẩn đoán khi có biến chứng
hoặc qua khám sức khỏe. Đề kháng insulin có thể cải thiện với giảm cân
và/hay là dùng thuốc nhưng hiếm khi trở lại bình thường.
Các yếu tố nguy cơ của ĐTĐ type 2:
• Tiền sử giảm dung nạp glucose hoặc rối loạn glucose lúc đói
• Tiền sử gia đình ĐTĐ
• Béo phì (nhất là béo phì dạng nam)
• Từ 45 tuổi trở lên
• Tăng HA và/ hoặc rối loạn lipid máu
• Tiền sử ĐTĐ thai nghén
6
• Tiền sử sinh con nặng ≥ 4 kg
• Chủng tộc (người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc Tây Ban Nha), người
Mỹ bản địa, người trên các đảo thuộc Thái Bình Dương)
Ngoài ra còn một số điều kiện thuận lợi:
• Ít vận động
• Stress
• Thói quen ăn nhiều và giàu đường đơn
• Dùng các thuốc làm tăng glucose huyết (corticoid)
• Chẩn đoán phân biệt ĐTĐ type 1 hoặc type 2 còn gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt ở những tuyến chưa có đủ xét nghiệm. Các yếu tố có
giá trị chẩn đoán cao là các kháng thể, insulin máu và C-peptid máu.
- Các type ĐTĐ đặc thù khác:
+ Tổn thương chức năng tế bào di truyền:
• MODY 1
• MODY 2
• MODY 3
• AND ty lạp thể
+ Thương tổn tác dụng insulin di truyền
• Đề kháng insulin type A

lệ phát hiện cao ở giai đoạn muộn của thai kỳ hơn là giai đoạn sớm. Phần lớn
các trường hợp sau sinh glucose có thể trở về bình thường trở lại, tuy nhiên
8
những trường hợp có tiền sử ĐTĐ thai kỳ này có nguy cơ phát triển thành
ĐTĐ type 2 trong tương lai.
1.4. MỘT SỐ BIẾN CHỨNG CỦA ĐTĐ TYPE 2
Biến chứng của bệnh nhân ĐTĐ type 2 được chia thành 2 nhóm chính:
Biến chứng cấp tính (hay gặp là hạ đường máu) và biến chứng mạn tính
(mạch máu nhỏ và biến chứng mạch máu lớn).
Biến chứng của ĐTĐ là nguyên nhân gây tử vong chính ở bệnh nhân
ĐTĐ. Thời gian tăng glucose máu càng dài thì nguy cơ của các biến chứng
mạn tính ngày càng tăng.
1.4.1. Biến chứng mạch máu nhỏ
Biến chứng này tác động tới tất cả các cơ quan do tổn thương các mạch
máu có đường kính < 30µm (tiểu động mạch, mao mạch, tiểu tĩnh mạch).
* Bệnh võng mạc đái tháo đường [10],[16],[19]
Bệnh võng mạc đái tháo đường là biến chứng đặc trưng của bệnh ĐTĐ,
là nguyên nhân gây mù lòa. Tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ type 2 tăng theo thời gian
mắc bệnh đái tháo đường. Theo DRS và ETDRS, bệnh võng mạc do ĐTĐ
được chia làm 3 giai đoạn:
- Bệnh võng mạc không tăng sinh
- Bệnh võng mạc tiền tăng sinh
- Bệnh võng mạc tăng sinh
Theo nghiên cứu của Hoàng Thu Hà, bệnh võng mạc ĐTĐ gặp hầu hết
các giai đoạn nhưng bệnh võng mạc ĐTĐ tăng sinh chiếm tới 69,8% [20].
Bệnh võng mạc tăng sinh do ĐTĐ nhanh chóng đe dọa thị lực bởi các mạch
máu tân tạo luôn có nguy cơ chảy máu và nguy cơ bong võng mạc. Mặt khác
thông qua đánh giá tình trạng võng mạc có thể hiểu được chức năng thận.
Tình trạng bệnh lý mắt – thận hầu như luôn đi song song với nhau [19].
* Biến chứng thận do đái tháo đường [10],[16],[21],[19]

kinh bằng Monofilaman, rung thoa, mất phản xạ gân gối, gân gót [24],[25].
Sự kết hợp của giảm nhạy cảm cảm giác đau và giảm cảm nhận bản thể
cùng các áp lực lớn khi đi đứng và trọng lượng cơ thể dồn hết vào đầu xương
bàn chân làm cho các vị trí này dễ bị loét.
– Bệnh thần kinh tự động do ĐTĐ: thường kết hợp với thần kinh ngoại
vi, tổn thương rất nhiều cơ quan và hệ thống cơ quan.
+ Bệnh thần kinh tự động tim:
Triệu chứng lâm sàng: nhịp tim khi nghỉ nhanh > 100 lần/phút, NMCT
không triệu chứng, hạ huyết áp tư thế.
+ Biến chứng thần kinh tự động ống tiêu hóa: gây giảm co thắt thực
quản, dạ dày. Biểu hiện: nuốt nghẹn, đầy bụng, ăn chậm tiêu, đau thượng vị,
buồn nôn, ỉa chảy hoặc táo bón xen kẽ từng đợt.
+ Bệnh thần kinh tự động tiết niệu – sinh dục
• Bệnh thần kinh bàng quang: Biểu hiện đái không hết bãi, đái khó, bí đái
• Bệnh thần kinh hệ sinh dục:
Nam giới: rối loạn cương dương, trào ngược tinh dịch, phóng tinh ra quá sớm
Nữ giới: rối loạn kinh nguyệt, khô âm đạo, giảm cảm giác vùng bẹn,
mất cảm giác kích thích tình dục.
+ Bệnh thần kinh vận mạch:
• Tăng tiết mồ hôi vùng mặt và thân
• Giảm tiết mồ hôi ở phần xa gốc chi dưới: da khô, ngứa, rụng lông,
rạn nứt, gia tăng chai chân, loạn dưỡng móng, tăng nguy cơ loét chân.
– Biến chứng thần kinh sọ não: ít gặp (khoảng 0,5 – 1%). Thường gặp
nhất là dây thần kinh V, VI, VII, III,IV.
11
– Bệnh lý bàn chân do ĐTĐ:
Tổn thương bàn chân ĐTĐ là hậu quả của biến chứng thần kinh (vận
động, cảm giác, tự động), biến chứng mạch máu làm giảm tưới máu, tăng áp
lực quá mức vùng bàn chân, chấn thương, nhiễm trùng…[12],[24]. BN đái
tháo đường Việt Nam thường vào viện ở những giai đoạn muộn. Điều này dẫn

chí phải cắt cụt chi. Một số bệnh nhân không có triệu chứng rõ rệt do có biến
chứng thần kinh.
Thăm khám: mạch ngoại vi yếu, thậm chí không bắt được, rụng lông,
thiểu dưỡng móng, da khô lạnh. Siêu âm hoặc chụp mạch giúp chẩn đoán
bệnh lý mạch máu ngoại vi.
* Xơ vữa động mạch và rối loạn lipid máu:
Ở người bị bệnh ĐTĐ, bệnh xơ vữa động mạch và rối loạn chuyển hóa
lipid thường gặp hơn. BN đái tháo đường type 2 kháng insulin, kiểu rối loạn
lipid thường gặp là HDL – c thấp và triglycerid cao [27].
Triệu chứng lâm sàng của rối loạn lipid máu:
• Xơ vữa động mạch gây ra các bệnh tim mạch
• Các biểu hiện ngoài da: u vàng tại gân cơ như gân Achille và gân cơ
duỗi ngón tay, đôi khi xuất hiện tại gân khuỷu tay và đầu gối. Đôi khi
gặp u vàng phát ban ở bụng và chi trên.
• Hội chứng tăng chylomicron: xảy ra khi tăng chylomicron kéo dài, hậu
quả nặng nề nhất là gây viêm tụy cấp tái phát nhiều lần.
• Đau bụng mạn tính do gan nhiễm mỡ
1.4.3. Hạ đường huyết ở bệnh nhân ĐTĐ [9],[19]
13
- Hạ đường huyết là một trong những biến chứng cấp tính rất nguy hiểm ở BN
ĐTĐ, có thể dẫn tới tử vong nhanh chóng nếu không được phát hiện và xử trí
kịp thời.
- Hạ đường huyết là khi đường máu giảm dưới 70 mg/dl (3,9 mmol/l) (ADA-2010)
- Lâm sàng hạ glucose máu [9]
+ Mức độ nhẹ: Thường là triệu chứng vã mồ hôi, run chân tay và đói.
Đây là triệu chứng của hệ thần kinh tự động. Các triệu chứng này sẽ mất đi
sau khi uống 10 – 15 gram carbohydrate.
+ Mức độ trung bình: đau đầu, thay đổi hành vi, dễ bị kích thích, giảm
khả năng chú ý, ngủ gà. Thông thường người bệnh không đủ tỉnh táo để kết
hợp điều trị với thấy thuốc.

khoai lang, rau muống, rau cải…Hạn chế sử dụng các loại nước quả ép,
xay sinh tố, nên ăn cả múi, miếng để có chất xơ.
– Duy trì cân nặng ở mức lý tưởng hoặc giảm cân đến mức hợp lý.
Cân nặng lý tưởng được tính theo công thức:
Cân nặng lý tưởng = (chiều cao)
2
x 22.
– Phân bố bữa ăn: 3 bữa chính, hoặc 3 bữa chính và 2 bữa phụ (nếu tiêm
nhiều mũi insulin). Ăn một bữa trước khi đi ngủ nếu tiêm mũi insulin trước ngủ
nhằm tránh hạ đường huyết ban đêm và tránh tăng đường huyết sau ăn nhiều.
– Đủ duy trì hoạt động thể lực bình thường hàng ngày.
– Không làm thay đổi các yếu tố nguy cơ như rối loạn lipid máu,
tăng HA, suy thận…
1.5.3. Hoạt động thể lực và luyện tập
Rất quan trọng trong điều trị ĐTĐ type 2, có tác dụng điều chỉnh glucose
máu thông qua việc làm giảm tình trạng kháng insulin. Nếu tập đều đặn 30 –
45 phút mỗi ngày có thể giúp cải thiện việc kiểm soát đường huyết tốt trong
15
thời gian dài. Bệnh nhân nên chọn các môn thể dục, thể thao phù hợp với điều
kiện kinh tế và tình trạng bệnh, biến chứng ĐTĐ. Bệnh nhân tập luyện tăng
dần cho đến khi đạt thời gian ít nhất 30 phút/ngày và 5 ngày/tuần. (Khi đường
huyết đói dưới 5 mmol/l và trên 14 mmol/l không luyện tập).
1.5.4. Các thuốc viên điều trị ĐTĐ type 2:
* Thuốc kích thích tiết insulin nhóm sulfonylurea:
– Cơ chế: làm tăng tiết insulin từ các tế bào β tụy. Nghiên cứu đối chứng
với placebo cho thấy sulfonylurea làm giảm nồng độ glucose máu lúc đói
khoảng 3 – 4,2 mmol/l và giảm HbA1c 1,5 – 2% ở những BN điều trị trong
thời gian dài.
– Chỉ định: ĐTĐ type 2 béo phì hoặc không
– Chống chỉ định: ĐTĐ type 1, ĐTĐ nhiễm toan ceton, suy gan, suy

nôn, đầy bụng, ỉa chảy…
* Nhóm kích thích tụy bài tiết insulin không phải là sulfonylurea:
Nateglinid, repaglinid
– Cơ chế tác dụng: kích thích tụy sản xuất insulin. Nghiên cứu lâm sang
cho thấy repaglinid liều 4 mg làm giảm nồng độ glucose lúc đói gần 2,8
mmol/l và HbA1c giảm 1,9% so với placebo.
– Thời gian bán hủy ngắn dưới 1 giờ
– Chỉ định: Tăng đường huyết sau ăn, uống thuốc 1 - 10 phút trước bữa
ăn, thường là bữa ăn chính. Có thể dùng cho bệnh nhân suy thận hoặc bệnh
nhân có tuổi.
– Tác dụng phụ: Hạ đường huyết ít hơn sulfonylurea.
*Nhóm thiazolidinediones:
17
- Cơ chế tác dụng: chưa rõ ràng nhưng tác dụng quan sát được là làm tăng
chất vận chuyển glucose (GLUT 1 và GLUT 4). Làm giảm các acid béo tự do
(FFA). Làm giảm tân tạo glucose ở gan. Làm tăng biệt hóa các tiền acid béo
thành acid béo. Đơn trị liệu bằng glitazon cải thiện tốt glucose huyết lúc đói từ
3,3 – 4,4 mmol/l và HbA1c giảm từ 1,4 – 2,6% so với placebo.
- Chỉ định: ĐTĐ type 2 điều trị đơn trị liệu hoặc phối hợp với
sulfonylurea hoặc metformin.
- Chống chỉ định: Mẫn cảm với các thành phần của thuốc, có thai, cho
con bú, bệnh gan, suy tim.
- Liều lượng: Pioglitazon (Pioz viên 15mg): Liều 15 – 45mg/ngày.
Thuốc uống 1 lần trong ngày, xa bữa ăn,có thể uống trước bữa ăn sáng.
- Tác dụng phụ: Tăng cân, giữ nước, rối loạn chức năng gan.
* Nhóm thuốc ức chế enzym alpha glucosidase làm giảm glucose máu:
– Cơ chế tác dụng: thuốc ức chế hấp thu đường, làm giảm đường huyết
sau ăn. Tác dụng kiểm soát glucose huyết vừa phải, HbA1c giảm 0,5 – 1% so
với placebo.
– Chỉ định: tăng đường huyết sau ăn với điều trị bằng chế độ ăn hoặc

chậm trống dạ dày, chóng no, tăng GLP
+ Chỉ định: ĐTĐ type 1 và type 2
+ Liều lượng và cách dùng: Thuốc Pramlintid (Symlin dạng bút tiêm),
tiêm dưới da 30µg – 120 µg vào ngay trước các bữa ăn chính
+ Tác dụng phụ: nôn, buồn nôn, chán ăn, đau đầu
* Lựa chọn thuốc điều trị
– Đơn trị liệu:
Theo Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ nghiên cứu về bệnh ĐTĐ 2006 [19]
chọn metformin là thuốc đầu tiên điều trị phối hợp cùng với chế độ dinh
19
dưỡng và luyện tập thể lực. Tuy nhiên có khuyến cáo cho rằng nên ưu tiên lựa
chọn nhóm sulfonylurea cho bệnh nhân gầy và nhóm metformin cho người
béo khi bắt đầu điều trị. Đối với BN tăng đường máu sau ăn chiếm ưu thế thì
nhóm acarbose hoặc miglitol là nhóm ưu tiên lựa chọn [19],[32].
– Điều trị phối hợp:
Khi BN dùng một loại thuốc uống mặc dù đã đạt liều tối đa mà không
kiểm soát đường huyết như mong muốn thì nên kết hợp thuốc. Phối hợp thuốc
sulfonylyurea với metformin được áp dụng rộng rãi nhất. Nếu phối hợp 3 loại
thuốc uống (SU + MET + ức chế α glucosidase) hoặc phối hợp với một mũi
insulin tiêm trước khi ngủ [32].
1.5.5. Điều trị insulin
– Chỉ định insulin ở BN đái tháo đường type 2:
+ Chỉ định tạm thời ngay khi có đường máu cao > 16,5 mmol/l và/hoặc
HbA1c >11%.
+ ĐTĐ type 2 có chống chỉ định với thuốc uống: có thai, phẫu thuật
+ ĐTĐ có hôn mê nhiễm toan ceton hoặc hôn mê tăng áp lực thẩm thấu
+ ĐTĐ không đáp ứng với thuốc viên hạ đường máu
+ Dị ứng với thuốc viên hạ đường huyết
– Các loại insulin:
Loại insulin

– Các phác đồ tiêm insulin:
+ Phác đồ 1 mũi insulin
+ Phác đồ 2 mũi insulin
+ Phác đồ nhiều mũi insulin: Tiêm 3 lần trong ngày, Tiêm 4 lần/ ngày
1.5.6. Điều trị các yếu tố nguy cơ khác kèm theo
* Điều trị rối loạn lipid máu
- Thay đổi lối sống: Giảm cân, tăng vận động, thay đổi khẩu phần ăn cho
BN . Ngoài ra còn tăng cường chất xơ, giảm các acid béo bão hòa.
- Kiểm soát chặt glucose máu có thể làm giảm sản xuất VLDL (very low
density lipoprotein) bằng các thuốc điều trị đái tháo đường.
- Điều trị rối loạn lipid máu bằng các thuốc:
+ Nhóm statin (Ức chế HMG-CoA redutase): Lovastatin, Pravastatin,
Simvastatin, Atorvastatin, Rosuvastatin.
+ Nhựa gắn acid mật: (questran) và colestipol (colestid)
+ Acid nicotinic (Niacin, Niaspan)
+ Nhóm fibrate: Có 2 loại fibrate chính là gemfibrozil (lopid) và
fenofibrate (lipanthyl)
+ Nhóm thuốc ức chế hấp thu cholesterol: Ezetimibe
* Kiểm soát huyết áp [16],[19]
- Mục tiêu: HA < 130/80 mmHg và 125/75 mmHg khi có biến chứng thận.
- Phương pháp điều trị:
21
+ Nếu HA =130-139/80-89: Điều trị thay đổi lối sống (chế độ ăn, tập
luyện, bỏ thuốc lá, giảm cân nếu thừa cân) trong thời gian 3 tháng nếu không
đạt mục tiêu thì dùng thuốc.
+ Nếu HA ≥ 140/90 mmHg thì dùng thuốc hạ HA kết hợp với thay đổi
lối sống. Thuốc lựa chọn đầu tay là ức chế men chuyển hoặc chẹn thụ thể
angiotensin.
1.6. CHƯƠNG TRÌNH ĐÁNH GIÁ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG LIÊN CHÂU Á
(Joint Asia Diabetes Evaluation Program) [33],[34]

Chương trình JADE cung cấp mẫu cho tài liệu về các yếu tố nguy cơ và
biến chứng bằng các hướng dẫn chuẩn hóa, kết hợp các hướng dẫn chăm sóc
khác nhau dựa trên bằng chứng với khuyến cáo về lịch theo dõi và quy trình
chăm sóc cho phù hợp với nguy cơ của BN. Nhiều phương tiện hỗ trợ quyết
định như lời gợi ý, biểu đồ, đường khuynh hướng giúp bác sỹ và BN ra quyết
định dựa trên thông tin và tối ưu hóa việc chăm sóc. Chương trình JADE cũng
sở hữu các ma trận cho phép các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc theo dõi tiến
triển của bệnh và kiểm soát các yếu tố nguy cơ cho mục tiêu so sánh chuẩn và
cải thiện chất lượng. Các bệnh nhân ĐTĐ được quản lý theo một hướng dẫn
dựa trên phân tầng nguy cơ với lịch theo dõi được xác định được xác định
trước kèm đánh giá toàn diện mỗi năm. Kết quả mong muốn của hoạt động
này là tỷ lệ đạt được nhiều mục tiêu điều trị; thay đổi hành vi, trạng thái tâm
lý khỏe mạnh và chất lượng cuộc sống; giảm tỷ lệ các biến chứng và nhập
viện có liên quan đến ĐTĐ.
23
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Gồm 300 bệnh nhân ĐTĐ type 2 được quản lý, điều trị ngoại trú tại khoa
khám chữa bệnh theo yêu cầu bệnh viện Bạch Mai. Thời gian từ T8/2012 –
T8/2013.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
* BN đái tháo đường type 2 đến khám tại phòng khám của khoa khám
chữa bệnh theo yêu cầu, được hướng dẫn bởi nghiên cứu viên chính của
chương trình Việt Nam – JADE, có nguyện vọng muốn theo dõi đều đặn.
* Tuổi ≥ 18
* ĐTĐ type 2 mới chẩn đoán hoặc đã chẩn đoán bệnh, được điều trị
bằng thay đổi lối sống hoặc thuốc giảm đường huyết bao gồm thuốc uống
kèm hoặc không kèm insulin.
* Đối với BN đái tháo đường type 2 mới chẩn đoán:

nghiên cứu.
- Tất cả BN sẽ được khám toàn diện (đo chỉ số nhân trắc, đo mạch,
HA, khám mắt và bàn chân) và sau đó được nhóm nghiên cứu xem xét lại
theo khuyến cáo của phần mềm chạy trên web JADE, lặp lại khám toàn
diện lúc 12 tháng.
- Làm các xét nghiêm cơ bản: đường máu lúc đói, HbA1c, lipid máu, chức
năng gan thận, công thức máu định kỳ theo khuyến cáo của chương trình JADE.
25
- Đánh giá sự tuân thủ điều trị, thói quen sinh hoạt của BN: tuân thủ chế
độ ăn, tập luyện
- Can thiệp: Bác sỹ hướng dẫn BN theo dõi và điều trị, điều dưỡng
hướng dẫn BN tự chăm sóc để đạt mục tiêu điều trị.
- Tất cả các chi tiết của lần khám toàn diện và những lần theo dõi sẽ
được điều dưỡng, bác sỹ của nhóm nghiên cứu nhập vào mẫu bệnh án và sau
đó nhập vào phần mềm chạy trên trang web của JADE.
- Tất cả BN được tái khám theo mức độ nguy cơ của chương trình
JADE: sau 02 tháng, sau 03 tháng, sau 06 tháng, sau 12 tháng để đánh giá.
- Dựa vào một số yếu tố như tiền sử bệnh tim mạch, thận; các thông số phân
tầng nguy cơ; điểm nguy cơ, chức năng thận, BN được xếp vào 4 nhóm nguy cơ
và can thiệp theo hướng dẫn.
Phân tầng nguy cơ Rất cao (4) Cao (3) Trung bình(2) Thấp (1)
BC tim mạch - thận ≥ 1 0 0 0
Bất kỳ điểm nguy

Ko áp dụng ≥ độ đặc
hiệu
≥ độ nhạy và <
độ đặc hiệu
< độ nhạy
Thông số phân tầng Ko áp dụng ≥ 3 2 0 – 1


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status