tri thức bản địa về ứng xử xã hội trong cộng đồng người tày ở huyện nà hang - tỉnh tuyên quang giai đoạn 1986 - 2010 - Pdf 23


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN


VŨ THỊ HÀ

TRI THỨC BẢN ĐỊA VỀ ỨNG XỬ XÃ HỘI
TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI TÀY Ở
HUYỆN NÀ HANG - TỈNH TUYÊN QUANG
GIAI ĐOẠN 1986 – 2010 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
2.1. Ứng xử trong cộng đồng làng bản 25
2.2. Ứng xử trong dòng họ 33
2.3. Ứng xử trong gia đình 38
2.4. Ứng xử trong hôn nhân 47
Chương 3: QÚA TRÌNH BIẾN ĐỔI CỦA TRI THỨC BẢN ĐỊA VỀ ỨNG
XỬ XÃ HỘI TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC TÀY Ở NÀ HANG -
TUYÊN QUANG 60
3.1. Những yếu tố tác động tới quá trình biến đổi tri thức bản địa về ứng xử
xã hội 60
3.2. Qúa trình biến đổi của tri thức bản địa trong ứng xử xã hội 66
3.3. Một số nhận xét 76
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

iii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tri thức tộc người là một thành tố không thể thiếu của văn hoá tộc người,
không những góp phần khẳng định mà còn là nhân tố quan trọng quyết định

truyền thống, tạo nên một nét văn hoá độc đáo, đa dạng. Theo Nghị quyết Trung
ương Đảng lần thứ 5 khóa VIII (1998) của Đảng đây là “tài sản vô giá, gắn kết
cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để tạo ra những giá trị
văn hóa truyền thống (bác học và dân gian) văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn
hóa vật thể và phi vật thể” [63, tr 01].
Từ nhận thức trên góp phần vào việc nghiên cứu và bảo tồn văn hoá các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tôi quyết định chọn “Tri thức bản địa về ứng xử
xã hội trong cộng đồng người Tày ở huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang giai
đoạn 1986 - 2010” làm luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước tới nay có khá nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc Tày của
nhiều tập thể, cá nhân. Trong đó phải kể đến một số công trình sau:
Tác phẩm “Văn hoá Tày - Nùng” của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, Nxb Văn
hoá, 1984, là công trình nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về xã hội,
con người, văn hoá của hai dân tộc Tày – Nùng nói chung ở Việt Nam.
Công trình “Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1992, đã cho thấy một cách khái quát về đời sống kinh tế-xã hội, vật
chất, tinh thần cổ truyền của các dân tộc Tày Nùng ở Việt Bắc. Đây là nguồn tư
liệu cần thiết giúp tác giả tiếp cận về đặc điểm văn hóa truyền thống của dân
tộc Tày ở Nà Hang- Tuyên Quang.
Công trình “Văn hoá truyền thống Tày - Nùng” của các tác giả Hoàng
Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương Toàn,
Nxb Văn hoá dân tộc, 1993, đã đề cập đến một cách khái quát về đặc điểm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3
của hai dân tộc Tày, Nùng ở Việt Bắc trên hai phương diện lớn của nền văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Tác phẩm “Văn hoá dân gian Tày” của Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa

Qua nghiên cứu tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp bảo tồn và
phát huy những tri thức bản địa trong văn hóa truyền thống của người Tày ở Nà
Hang - Tuyên Quang.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và nguồn
gốc người Tày ở huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang, đề tài đi sâu nghiên cứu
những tri thức bản địa về ứng xử xã hội trong cộng đồng người Tày ở Nà Hang
- Tuyên Quang. Bên cạnh đó làm rõ quá trình biến đổi của tri thức bản địa về
ứng xử xã hội dưới tác động của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế hiện nay.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, đề tài nghiên cứu chủ yếu tại địa bàn huyện Nà Hang hiện
nay, tập trung nghiên cứu điển hình tại các xã có đông người Tày sinh sống
như Đà Vị, Yên Hoa, Năng Khả, Lăng Can.
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu những tri thức bản địa về ứng xử xã hội
của người Tày ở Nà Hang từ 1986 đến 2010 nghĩa là từ thời kỳ đổi mới đất
nước tới năm 2010.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Nguồn tư liệu
- Tài liệu thành văn: Đề tài kế thừa nguồn tư liệu khá phong phú của đã
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước bao gồm các công trình nghiên cứu
như sách báo, chuyên khảo, tạp chí, báo cáo khoa học, các đề tài nghiên cứu về
người Tày đã công bố, xuất bản.
- Tư liệu địa phương bao gồm các công trình nghiên cứu về lịch sử, văn
hoá tộc người ở tỉnh Tuyên Quang nói chung và huyện Nà Hang nói riêng.
- Tư liệu điền dã bao gồm các tài liệu thu thập được qua quan sát trực tiếp,
địa bàn nghiên cứu và phỏng vấn các nhân chứng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6
Chương 2: Tri thức bản địa về ứng xử xã hội trong cộng đồng người Tày ở
Nà Hang - Tuyên Quang giai đoạn 1986 - 2010
Chương 3: Quá trình biến đổi của tri thức bản địa về ứng xử xã hội của
người Tày ở Nà Hang - Tuyên Quang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1.Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của huyện Nà Hang tỉnh
Tuyên Quang
Nà Hang là một huyện vùng cao nằm ở phía Bắc của tỉnh Tuyên Quang,
cách thị xã Tuyên Quang 113 km. Nằm trong hệ toạ độ từ 22
o
14’ đến 22
o
42’ vĩ
Bắc và 105
o
08’ đến 105
o
36’ kinh Đông. Phía Bắc huyện Nà Hang giáp với các
huyện Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng) huyện Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn), huyện Bắc Mê
(tỉnh Hà Giang); Phía Nam giáp với huyện Chiêm Hoá (tỉnh Tuyên Quang);
Phía Đông giáp với huyện Chợ Đồn (tỉnh Bắc Kạn); Phía Tây giáp với huyên

ngày nhiệt độ ấm áp, nhưng ban đêm nhiệt độ thường thấp, với độ chênh lệch giữa
ngày và đêm từ 5
o
C

- 10
o
C, nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 22
o
C, tối đa 38
o
C
(tháng 7) và tối thiểu 0
o
C (tháng 12) với nhiệt độ trung bình vào mùa đông là 16
o

C. Lượng mưa trung bình trong năm khoảng 1800 (mm/năm), cao nhất là vào
tháng 5 đến tháng 9 (83%), và thấp nhất vào tháng 1, tháng 2, có mưa đá. Gió mùa
đông bắc thổi từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Gió mùa đông nam bắt đầu từ
tháng 4 và kết thúc vào tháng 11. Độ ẩm trung bình khoảng 85%, có sương muối
xuất hiện bình quân 6 ngày trong năm (tháng 11, 12), ảnh hưởng xấu đến sản xuất
nông lâm nghiệp.
Về sông ngòi, Nà Hang có hai con sông là sông Gâm và sông Năng. Sông
Gâm chảy qua huyện trên độ dài 53 km, qua các xã Thuý Loa, Xuân Tân, Xuân
Tiến, Thượng Lâm, Trùng Khánh, Năng Khả, Vĩnh Yên, Thanh Tương và thị trấn
Nà Hang sau đó chảy qua huyện chiêm Hoá rồi hợp lưu với sông Lô. Đây là
đường thuỷ duy nhất nối huyện Nà Hang với tỉnh lỵ Tuyên Quang. Sông Năng bắt
nguồn từ cửa hồ Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) chảy vào huyện Nà Hang theo hướng
Đông Tây trên độ dài 25 km. Sông Năng chảy qua các xã Đà Vị, Khau Tinh, Sơn

ven các sông suối hoặc vùng trũng úng ngập. Đây là khu vực đất đai có tầng dày
và độ phì nhiêu khá cao. Diện tích đất nông nghiệp của huyện tuy không lớn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

10
song có độ dày canh tác cao, màu mỡ, thích hợp với việc phát triển cây lương
thực, cây công nghiệp. Bên cạnh đó, huyện còn có thảm thực vật phong phú
để phát triển chăn nuôi đại gia súc. Đất đai và khí hậu một vài nơi cho phép
trồng các loại cây ăn quả ôn đới (mận, đào, lê…). Nằm trên vòng cung
sông Gâm, Nà Hang có nhiều dãy núi lớn, có nhiều đỉnh núi cao trên
1000m. Những dãy núi đất và núi đá xen lẫn nhau tạo thành nhiều thung
lũng lớn như: Thượng Lâm, Lăng Can, Vĩnh Yên…rất thích hợp cho việc
canh tác các loại cây nông nghiệp.
Nhìn chung, tài nguyên thiên nhiên phong phú là tiềm năng để Nà Hang
phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp. Tuy nhiên sự phức tạp của tự nhiên ở đây
cũng gây không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Song chính môi trường cảnh quan và lịch sử tộc người đã hình thành nên bản sắc
văn hoá của các dân tộc ở nơi đây.
1.2. Khái quát về tộc người Tày ở huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang
1.2.1. Nguồn gốc, địa bàn cư trú
Huyện Nà Hang có 18 dân tộc anh em cùng sinh sống bao gồm người
Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh…thuộc các nhóm ngữ hệ khác nhau: Tày- Thái,
Mông - Dao, Việt - Mường…Theo số liệu thống kê năm 2009 huyện Nà Hang
có 60.151 nhân khẩu được phân bố theo dân tộc như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn


0.49%

4
H’Mông
4.527
7.52%

5
Các dân tộc khác
16.053
26.68% (Nguồn: Phòng thống kê huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang )
Bảng số liệu trên cho thấy, người Tày ở huyện Nà Hang có số dân đông
nhất 33.196 người, chiếm 55,2% tổng dân số toàn huyện, cư trú ở hầu khắp các
xã, thị trấn trong huyện. Nên các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội đặc biệt là văn
hóa ứng xử của người Tày đã có tác động nhất định tới đời sống của các dân
tộc trong huyện.
Người Tày, Nùng vốn thuộc nhóm Âu - Việt trong khối Bách Việt mà địa
bàn cư trú là miền Bắc Việt Nam và miền Hoa Nam Trung Quốc. Vào thế kỷ
thứ III trước công nguyên liên minh bộ lạc Âu- Việt của nhóm Tày- Nùng (với
nền văn minh nương rẫy) đã cùng với liên minh bộ lạc Việt của nhóm Việt-
Mường (với nền văn minh lúa nước) nằm trong khối Bách Việt thành lập nên “
Vương quốc” Âu Lạc. Người thủ lĩnh đứng đầu là thủ lĩnh An Dương Vương.
Thời Lý - Trần, nhất là thời Lê Sơ, nhà nước phong kiến Việt Nam đặt chế
độ “ thế tập phiên thần” tức chế độ thổ ty, phái một số công thần hay con cháu
của họ chọn những phần tử trung kiên nhất đem theo gia đình, thân tộc lên
chiêu dân lập ấp ở các tỉnh biên giới. Sau mỗi trận chiến thắng, quét sạch quân
xâm lược ra khỏi bờ cõi, các vị lưu quan này đời đời kế tục cai trị địa phương

nguồn gốc của họ cần phải có những nghiên cứu của các nhà khoa học.
Theo cuốn thư tịch Hán Nôm “Nguyễn Quảng tộc phả” (gia phả dòng họ
Nguyễn Quảng) ở xã Côn Lôn, huyện Nà Hang có ghi: …Nguyễn Quang Khải
trong cuộc khởi nghĩa của Nùng Văn Vân là người Kinh (người Việt) quê ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

14
Quảng Nam đã lên đây làm rể đời trong một gia đình người Tày. Để tưởng nhớ
tới quê hương của mình nên đã dùng chữ Quảng làm tên đệm…”. Ngày nay,
các con cháu dòng họ Nguyễn Quảng đều tự nhận mình là người Tày, mọi
phong tục, tập quán, lối sống sinh hoạt đều giống người Tày. Như vậy, đồng
bào Tày ở Nà Hang một bộ phận là người Tày cư trú từ lâu đời, bộ phận còn lại
là người Kinh bị “Tày hoá” [18, tr 23].
Người Tày hiện nay sống dải rác khắp nơi trong huyện Nà Hang, tập trung
chủ yếu ở các xã Đà Vị, Yên Hoa, Năng Khả, Lăng Can. Địa vực cư trú của
người Tày thường là vùng thấp, nơi có các thung lũng nhỏ, soi bãi rộng, nơi gần
nguồn nước… đặc biệt bản của người Tày thường quần cư ở ven lưu vực của hai
con sông lớn đó là sông Gâm và sông Năng, ngoài ra đồng bào còn tập trung cư
trú ở một số con suối lớn như suối Nặm Vang, Bắc Vãng.
Bảng 2: Thống kê dân số người Tày theo xã ở huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang
Stt
Tên xã, thị trấn
Tổng số dân
Dân số người Tày
Tỉ lệ (%)
1
Thị trấn Nà Hang
7.266
3.525

79.7%
8
Yên Hoa
4.799
3.041
63.3%
9
Khuôn Hà
3.565
2.556
71.7%
10
Hồng Thái
1.502
32
2.1%
11
Đà Vị
5.290
3.804
72%
12
Khau Tinh
1.395
557
39.9%
13
Lăng Can
4.813
3.731

cư trú phù hợp với phong tục tập quán riêng. Sự xen kẽ nhiều dân tộc trên cùng
một địa bàn ngày càng trở nên phổ biến, đan xen vào nhau góp phần làm cho văn
hóa truyền thống của đồng bào nơi đây phong phú, đa dạng và độc đáo.
1.2.2 Bản sắc văn hóa của cộng đồng người Tày ở Nà Hang tỉnh
Tuyên Quang
1.2.2.1 Văn hóa vật chất
Người Tày ở Nà Hang làm ruộng nước là chính. Ruộng của đồng bào có
nhiều loại. Ruộng nước (nà nặm) là loại ruộng có nước tưới tiêu quanh năm, có
thể cấy được hai vụ, cho năng suất cao. Ruộng khô (nà lẹng) là loại ruộng bậc
thang trên sườn đồi, bìa rừng. Loại ruộng này thường phải phụ thuộc vào nước
mưa, vì vậy thường chỉ cấy được một vụ hoặc xen canh một vụ lúa, một vụ
ngô, khoai , đỗ, vào mùa khô. Do phải phụ thuộc vào thời tiết nên loại ruộng
này cho năng xuất bếp bênh, không đảm bảo thời vụ. Ruộng bùn (nà pùng) là
loại ruộng chằm ngập nước tự nhiên, thường là dưới thung lũng, cạnh sômg

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

16
ngòi, mương máng, nước luôn luôn chảy hay thấm vào. Loại ruộng này thường
hay bị chua cho năng suất thấp.
Về kỹ thuật canh tác ruộng nước ở người Tày đạt tới trình độ khá cao,
không thua kém nhiều so với các dân tộc ở vùng thấp khác. Người Tày thường
cấy hai loại lúa nếp và lúa tẻ, với nhiều giống khác nhau, có đặc tính khác
nhau. Người Tày ở Nà Hang chủ yếu phân loại theo thời gian, loại ngắn ngày
và loại dài ngày. Ngày nay, do khoa học kỹ thuật đã bắt đầu phát triển và thâm
nhập vào vùng nông thôn Tày, nhiều nơi đã từ bỏ giống cũ, nhập những loại
mới có thời gian ngắn hơn, năng suất cao hơn, chống sâu bệnh và chịu úng,
chịu hạn tốt hơn. Bên cạnh việc canh tác lúa nước, bà con vẫn duy trì những
hình thức trồng trọt nương dẫy hoặc làm soi bãi để trồng ngô, khoai, sắn, rau,
đỗ các loại và trồng bông dệt vải; Xung quanh nhà ở trồng cây ăn quả, tre và

Nà Hang- Tuyên Quang.
Nghề dệt vải tồn tại như một dấu ấn của sự phát triển tộc người. Nó là
sự biểu hiện của sức sáng tạo lớn lao trong lịch sử kinh tế, văn hóa của cộng
đồng tộc người. Trong tác phẩm: “ Nguồn gốc gia đình, của sở hữu tư nhân và
của nhà nước” F.Ănghen đã chỉ ra rằng: “Từ thời đại dã man sang thời đại
văn minh được đánh dấu bởi hai thành tựu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
mang tính cách mạng trong lịch sử phát triển của nhân loại. Thành tựu thứ
nhất là khung dệt, thành tựu thứ hai là chế tạo đồ kim loại. Mà thành tựu thứ
nhất là khung dệt của nghề dệt được đánh giá như một phát minh lớn đưa
nhân loại tiến những bước quan trọng trong quá trình phát triển của lịch sử”.
Nghề đan lát của người Tày ở Nà Hang đã có từ lâu đời, cho tới ngày nay
vẫn còn tồn tại, nguyên liệu đan lát là tre, nứa, giang, mây…sẵn có trong thiên
nhiên, từ người già, trẻ, trai, gái đều có thể tận dụng thời gian nhàn rỗi để làm.
Nhất là đối với các thiếu nữ, đan lát còn thể hiện sự khéo léo của mỗi người trên
mỗi sản phẩm, dùng các loại nan màu để đan cải hoa văn và cải chữ. Sản phẩm
chủ yếu dùng cho sinh hoạt hàng ngày như Dậu, rổ, rá, nong, nia, thúng…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

18
Nghề mộc tuy đã có từ lâu đời, cho đến nay vẫn còn tồn tại, song các sản
phẩm chưa đạt tới trình độ cao, mang tính chất tự túc, tự cấp, chủ yếu là làm
nhà, đóng các loại hòm gỗ, quạt hòm…
Trước kia, nghề rèn ở Nà Hang cũng khá phát triển trong từng gia đình
nhưng chủ yếu là sửa chữa lại một số dụng cụ phục vụ cho nông nghiệp. Hiện
nay, nghề rèn ở đây hầu như đã bị mai một, các loại dụng cụ đồng bào đều mua
của người Việt.
Phương tiện vận chuyển chính của người Tày là đôi dậu gánh để
chuyển chở sản phẩm nặng đòi hỏi phải mang vác hoặc sử dụng khi đi
nương, đi chợ. Còn đối những thứ nhẹ và sạch sẽ thì chiếc túi vải lại đóng

được thông vách có cửa chính, cửa sổ.
Nhà sàn của người Tày ở Nà Hang phổ biến là kiểu nhà ba gian hai chái. Nhà
to có nhiều gian và vì kèo, có từ năm đến bảy cột to đường kính từ 30-45cm, các
vì ở giữa trốn cột (không có cột cái và vì ở giữa). Nhà nhỏ có ít gian, ít vì kèo, ít
cột và cột nhỏ có đường kính từ 25-30 cm không bào gọt cầu kỳ như nhà to. Hệ
thống cột được liên kết với nhau bằng dầm và các xà xuyên, nhà nhỏ đồng bào
thường không đục lỗ mà chỉ buộc dây kết hợp với ngoãm. Trước kia nhà sàn của
người Tày ở Nà Hang phần lớn là cột chôn, nhưng hiện nay nhiều nhà đã dùng đá
để chôn chân cột. Trong nhà được chia thành hai phần rõ rệt: Phần trong và phần
ngoài. Phần ngoài có bàn thờ tổ tiên, bếp gần như được được đặt ở giữa khu phía
sau bàn thờ, xung quanh có chỗ ăn uống và dệt vải . Chỗ ngủ của nữ, trẻ em, kho
chứa đồ gia dụng và lương thực thực phẩm, nơi tiếp khách nữ được ngăn thành
buồng riêng ở bên trong. Chỗ ngủ của nam và tiếp khách của nam giới được nằm
ở phần ngoài. Nhà có hai cửa chính, cửa trước, cửa sau và có nhiều cửa sổ nên nhà
rất thoáng. Cửa sau cũng là khu vực làm những công việc trong nhà như sàng xẩy,
tỉa ngô, chọn giống, chế biến lương thực thực phẩm, đan lát…Ngoài ra trên mỗi
ngôi nhà còn có những phần phụ nhưng hết sức quan trọng, đó là máng đựng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

20
nước rửa chân, cầu thang, khu sàn để nước, nơi để dụng cụ lao động cầm tay và
sàn phơi ngoài trời .
Nhà sàn của người Tày mang bản sắc văn hóa tộc người đậm nét, là kết quả
của quá trình lao động và sáng tạo, là nơi chứa đựng tình cảm, mối quan hệ ứng
xử thường nhật. Ngôi nhà mang dáng dấp vững chãi, thoáng đãng và là niềm tự
hào của người Tày.
Ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày qua đó ta thấy khả năng và trí tuệ
của những “Kiến trúc sư” người nghệ nhân dân gian Tày đã biết sáng tạo hết sức
tài tình ngay trong điều kiện thô sơ của xã hội có nền kinh tế tự cấp, tự túc là chủ

sông, suối. Các món ăn thường được đồng bào chế biến dưới dạng khác nhau
như: sào, nấu, luộc, hầm, rán…
Trong ngày lễ tết nguyên đán người Tày còn chế biến nhiều món ăn khác
như một số loại bánh, làm đậu phụ, đánh tiết canh, làm thịt lợn quay…
Trong sinh hoạt hàng ngày đồng bào Tày ở huyện Nà Hang thường uống
nước trà, các loại lá vối, chè dây, thân khúc khắc, nước đun sôi để nguội…
Người Tày ở Nà Hang thường có tập quán uống trà vào mùa đông, người
ta hay vần ấm trà bên cạnh bếp lửa để uống. Trong sinh hoạt thường ngày,
ngoài nước uống thông thường, người Tày còn uống rượu (kin lẩu) trong bữa
ăn. Và rượu là đồ uống không thể thiếu được trong sinh hoạt văn hóa cộng
đồng người Tày nói chung và người Tày ở huyện Nà Hang nói riêng.
Hầu hết nam giới đều biết uống rượu. Rượu được nấu từ gạo, ngô, trước
kia nấu cả bằng sắn, đồng bào tự làm men bằng lá gọi là men lá, sau này người
ta ít dùng men lá hơn. Đồng bào Tày còn có một loại rượu đặc sản đó là rượu
ngô, người ta dùng ngô chưa xay trộn với thân cây móc rừng đã đẽo bỏ phần
vỏ, băm nhỏ nấu chín cả ngô và móc, dỡ ra để nguội, tra men vào ủ, khoảng 5-
6 ngày đem nấu cất thành rượu, rượu có mùi thơm, hương vị đặc trưng, vùng
Nà Hang có rượu ngô ngon nổi tiếng. Nhìn chung, người Tày cũng giống như
các dân tộc khác họ biết dùng những sản vật tự nhiên có sẵn để chế ra các loại
đồ uống hợp với mùa, hợp với điều kiện sinh hoạt của gia đình, của cộng đồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

22
1.2.2.2. Văn hóa tinh thần
Người Tày ở Nà Hang quan niệm vũ trụ là vô cùng, vô tận. Trời và đất
đều có nguồn gốc sinh thành. Trời và đất gồm 3 mường, mường trời là thế giới
thần tiên, mường người là thế giới mặt đất; mường âm là thế giới của những
người sống trên mặt đất. Mặt trời, mặt trăng và các vì sao là tai mắt của trời.
Riêng ở nơi trần gian còn có muôn vật, muôn loài, do con người làm chúa tể.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status