đánh giá kết quả sớm phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo ngoài phúc mạc điều trị thoát vị bẹn - Pdf 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
NGUYỄN VIỆT HÙNG
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM PHẨU THUẬT NỘI SOI
ĐẶT TẤM LƯỚI NHÂN TẠO NGOÀI PHÚC MẠC
ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ BẸN
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Chuyên Ngành: Ngoại Khoa
Người Hướng Dẫn Khoa Học:
PGS.TS Phạm Như Hiệp
Huế -2013
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1 3
TỔNG QUAN 3
1.1. Sơ lược lịch sử điều trị thoát vị bẹn 3
1.2. Hình thái học 5
1.2.1. Giải phẩu 5
1.2.2. Giải phẩu ngoại khoa thoát vị bẹn 7
1.2.3 Giải phẫu bệnh 8
1.3. Những cơ chế bảo vệ ống bẹn 9
1.3.1. Vai trò của lỗ bẹn nông hoặc khe cân cơ chéo bụng ngoài 9
1.3.2. Vai trò của cơ chéo bụng trong 9
1.3.3. Vai trò của cơ ngang bụng 9
1.3.4. Vai trò của mạc ngang 10
1.4. Nguyên nhân đưa đến bệnh lý thoát vị bẹn 11
1.4.1. Nguyên nhân bẩm sinh 11
1.4.2. Nguyên nhân mắc phải 11
1.4.2.1. Sự suy yếu của các lớp cân – cơ – mạc của thành bụng 11

1.10. Các loại tấm lưới nhân tạo 22
1.10.1. Nhóm làm bằng vật liệu tan 22
1.10.2. Nhóm làm bằng vật liệu không tan 23
1.10.3. Tiêu chuẩn của tấm lưới nhân tạo 25
Chương 2 26
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. Đối tượng nghiên cứu 26
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh 26
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ 26
2.2. Phương pháp nghiên cứu 26
2.2.1. Đặc điểm dịch tễ 26
2.2.2. Đặc điểm lâm sàng 26
2.2.3. Đặc điểm cận lâm sàng 27
2.2.4. Phân loại thoát vị 27
2.2.5. Phương tiện nghiên cứu 28
2.3. Phương pháp phẫu thuật 29
2.3.1. Chuẩn bị trước mổ 29
2.4. Theo dõi và đánh giá kết quả 32
2.4.1. Tỷ lệ chuyển đổi phương pháp phẫu thuật 32
2.4.2. Thời gian phẫu thuật 33
2.4.3. Mức độ đau sau mổ 33
2.4.4. Thời gian điều trị sau mổ 33
2.4.5. Biến chứng sớm 33
2.4.6. Các biến chứng muộn 34
2.4.7. Đánh giá kết quả khi bệnh nhân ra viên 34
2.4.8. Đánh giá kết quả khi tái khám 35
2.5. Xử lý số liệu 35
Chương 3 36
KẾT QUẢ 36
3.1. Đặc điểm chung: 36

4.1.2. Tuổi 47
4.1.3. Địa dư 48
4.1.4. Nghề nghiệp 48
4.1.5. Tiền sử phẫu thuật 48
4.1.6. Lý do vào viện 50
4.1.7. Thời gian mắc bệnh 50
4.1.8. Bệnh lý kèm theo 51
4.2. Đặc điểm lâm sàng 51
4.2.1. Vị trí thoát vị 51
4.2.2. Hoàn cảnh xuất hiện và tác động của khối thoát vị 52
4.2.3. Phân loại thoát vị 52
4.2.4. Phân loại thoát vị theo Nyhus 53
4.2.5. Liên quan giữa tuổi và các loại hình thoát vị 54
4.3. Đặc điểm cận lâm sàng 54
4.4. Điều trị 55
4.4.1. Phương pháp phẫu thuật 55
4.4.2. Chuyển kỷ thuật mổ khác 58
4.4.3. Kích thước tấm lưới nhân tạo 58
4.4.4. Thời gian phẫu thuật 60
4.4.5. Mức độ đau sau mổ 60
4.4.6. Thời gian nằm viện sau mổ 61
4.4.7. Biến chứng sớm sau mổ 62
4.4.8. Biến chứng muộn sau mổ 63
4.4.9. Tái phát 63
KẾT LUẬN 64
1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng: 64
2. Kết quả phẫu thuật sớm: 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
PHIẾU ĐIỀU TRA


Biểu đồ 3.4 phân loại thoát vị . ( n = 85 thoát vị ) 41
DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Dàn máy nội soi Karl-storz 28
Hình 2: Bộ dụng cụ PTNS 29
Hình 3: Tấm lưới nhân tạo 29
Hình 4 – 5: Vị trí phẫu thuật viên 30
Hình 6: Khoang thao tác. (bệnh nhân Chế Quang P) 31
Hình 7: phẫu tích túi thoát vị.(bệnh nhân Chế Quang P) 32
Hình 7 : Đặt lưới. (bệnh nhân Chế Quang P) 32
Hình 8. Thang điểm đau VAS 33
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bẹn là tình trạng các tạng trong ổ phúc mạc đi ra ngoài ổ phúc
mạc trong một túi thừa phúc mạc gọi là “túi thoát vị”, qua ống bẹn hay một
điểm yếu tự nhiên của thành bụng. Thoát vị bẹn ở trẻ em thường là thoát vị
bẩm sinh do còn tồn tại ống phúc tinh mạc, tạng chui ra ngoài qua hố bẹn
ngoài vào ống phúc tinh mạc để xuống bìu, túi thoát vị nằm trong bao xơ
thừng tinh. Thoát vị bẹn ở người lớn thường là thoát vị mắc phải do chỗ yếu
của cân cơ thành bụng, tạng chui ra ở hố bẹn trong, túi thoát vị nằm ngoài bao
xơ thừng tinh.[12].
Thoát vị vùng bẹn là bệnh lý thường gặp ở nhiều lứa tuổi, từ sơ sinh
đến người già, nam nhiều hơn nữ, 90% gặp ở nam giới. Theo Abrahamson tần
suất thoát vị bẹn tăng dần theo tuổi. Tuổi từ 25 đến 40 tần suất thoát vị bẹn là
5 – 8 %, đến lứa tuổi trên 75 tần suất thoát vị bẹn là 45 %. Xuất độ chung ở
người lớn là 10 – 15 % .[26]
Tại Mỹ có khoảng 700.000 phẫu thuật thoát vị bẹn [26], tại Đức có
khoảng 230.000 phẫu thuật thoát vị bẹn[71], tại Anh có khoảng 100000 phẫu
thuật thoát vị bẹn hàng năm[31], tại Pháp phẫu thuật thoát vị bẹn đứng thứ 2
sau cắt ruột thừa[24]. Do đó đây vẫn là vấn đề luôn luôn được nhắc tới trong
lĩnh vực ngoại khoa. Cho đến nay đã có rất nhiều kỹ thuật điều trị thoát vị bẹn

3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Sơ lược lịch sử điều trị thoát vị bẹn.
Theo Davis năm 176 sau Công nguyên, Galen khi nghiên cứu về cơ chế
bệnh sinh của thoát vị bẹn gián tiếp đã viết như sau “ cái ống đi xuống tinh
hoàn là một cái túi nhỏ (ống phúc tinh mạc ) của túi phúc mạc ở phía dưới ”.
Trước đó, năm 1552 trước Công nguyên người Ai Cập đã mô tả cách điều trị
thoát vị bẹn bằng áp lực bên ngoài. Sự ghi nhận sớm nhất về phương pháp
điều trị phẫu thuật thoát vị của Susruta vào thế kỷ thứ V sau Công nguyên.
Vào những năm 700 sau Công nguyên Paul ở Aegina ( Hy Lạp ) đã đề nghị
cắt cùng lúc cả thừng tinh, túi thoát vị lẫn tinh hoàn. Phẫu thuật này tồn tại
suốt thời kỳ trung cổ. Một phương pháp khác là dùng phản ứng viêm để củng
cố làm chắc lỗ thoát vị bằng cách đốt nóng đỏ hoặc tiêm các chất acid để tạo
chắc ở vùng thành trước ống bẹn.[12],[44].
Ceradus Mets và Ambroise Pare dùng phương pháp: Xoắn các dây vòng
quanh túi thoát vị và thừng tinh ở lỗ bẹn ngoài để ngăn không cho ruột sa xuống.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX , giải phẫu ống bẹn được mô tả
một cách chính xác bởi Camper, Cooper, Hesselbach và Scarpa, cùng với
phương pháp sát trùng của Lister đã cho phép suy xét kỹ lưỡng tính khả thi
của việc tái cấu trúc ống bẹn. Bassini 1897 và Halsted 1889 đã báo cáo sự
thàng công của kỹ thuật cơ bản lúc bấy giờ trong thủ thuật khâu túi thoát vị.
Mặc dù vậy năm 1884 Banks đã khuyến cáo nên dùng băng thun ép vào chổ
thoát vị, ông chỉ mổ những bệnh nhân khi dùng băng thun thất bại. Ông cũng
đã mô tả sự di chuyển hoàn toàn của túi thoát vị ngang qua lỗ bẹn nông. Năm
1899 Ferguson mô tả phương pháp thắt cao túi thoát vị và tái tạo các phần
liên quan của cấu trúc thừng tinh.[12],[44].
4
Người đóng góp lớn nhất vào lỉnh vực phẩu thuật thoát vị bẹn là
Eduado Bassini một phẩu thuật viên người Ý vào năm 1889 ông đề xuất

nhau của thành bụng, mỗi lớp tạo nên một lớp mỏng bao bọc tinh hoàn và
thừng tinh. Các tên gọi của mỗi lớp này theo nguôn gốc của chúng là chủ đề
đã được các nhà nghiên cứu y học quan tâm đến, trong một khe nằm giữa các
lớp cân cơ của thành bụng, đi từ lỗ bẹn sâu đến lỗ bẹn nông. Điểm khác nhau
căn bản về mặt giải phẩu giữa người lớn và trẻ em là khoảng cách giữa các lỗ
bẹn nông và lỗ bẹn sâu.[15]
Thành trước ống bẹn: phần lớn thành trước ống bẹn ở phía trong được
tạo nên bởi cân cơ chéo bụng ngoài và một phân nhỏ phía ngoài bởi cân cơ
chéo bụng trong ở chổ này cơ bám vào dây chằng bẹn.
Cân cơ chéo bụng ngoài có phần bám vào xương mu bởi hai dải cân gọi
là hai cột trụ:
- Cột trụ ngoài: bám vào củ mu.
- Cột trụ trong: chạy qua trước cơ thẳng bụng và cơ tháp tới bám vào
thân xương mu và đường trắng.
Ngoài ra còn có một dải cân đôi khi rất rõ, đi từ chổ bám của cột trụ
ngoài, quặt ngược lên trên và vào trong rồi đan lẫn với cân cơ chéo bụng
ngoài bên đối diện. Dải cân này được gọi là dây chằng phản chiếu. Giữa hai
cột trụ ngoài và cột trụ trong còn có nhưng thớ sợi nối liền hai cột trụ và được
gọi là sợi gian trụ.[15]
Thành dưới ống bẹn: Được tạo nên bởi dây chằng bẹn
Dây chằng bẹn chẳng qua chỉ là chổ dày lên của bờ dưới cân cơ chéo
bụng ngoài, đi từ gai chậu trước-trên tới củ mu. Ở đoạn trong, từ dây chằng
6
bẹn, ngoài nhưng sợi tới bám vào củ mu còn có những thớ sợi chạy vòng ra
phía sau đến bám vào đường lược của xương mu gọi là dây chằng khuyết.
Dây chằng khuyết tiếp tục đi ra phía ngoài tới lồi chậu mu, ở đây nó hòa lẫn
với cân cơ lược và lớp chu cốt mạc của xương mu tạo nên một dây chằng rất
chắc gọi là dây chằng lược.
Thành trên ống bẹn: là bờ dưới của cơ chéo bụng trong và cơ ngang
bụng. Khi bờ dưới của hai cơ này dính vào nhau thì tạo nên một cấu trúc gọi

đó là cơ thăng bụng, ra dần phía ngoài 2 bên là các khối cơ đan với nhau từ
trong ra ngoài là cơ ngang bụng, cơ chéo bụng trong, ngoài cùng là cân cơ
chéo bụng ngoài.[2]
Dây treo bàng quang hay dây chằng rốn giữa, hai dây chằng rốn trong,
và hai động mạch thượng vị dưới, nằm ở trong thành bụng đội lớp cân mạc.
Phúc mạc khi phủ lên các thừng sợi này tạo nên các chỗ nổi gờ lên gọi là các
nếp. Ứng với động mạch thượng vị và hai thừng sợi kể trên, từ ngoài vào
trong có các nếp rốn ngoài, nếp rốn trong và nếp rốn giữa. Giữa các nếp phúc
mạc lõm thành ba hố là:[2]
- Hố bẹn ngoài: ở phía ngoài động mạch thượng vị dưới, đây là nơi xảy
ra thoát vị bẹn gián tiếp.
- Hố bẹn trong: nằm giữa nếp rốn ngoài và nếp rốn trong. Đây là nơi
yếu nhất của thành bụng, thường xảy ra các thoát vị bẹn trực tiếp.
- Hố trên bàng quang: nằm giữa nếp rốn trong và nếp rốn giữa, ít xảy ra
thoát vị.[2]
Hố bẹn trong là chổ yếu nhất của thành bụng vì ở đây có tam giác bẹn,
giới hạn của tam giác bẹn là cạnh ngoài là động mạch thượng vị dưới, cạnh
trong là bờ ngoài của cơ thẳng bụng, cạnh đáy là dây chằng bẹn. Ở bình diện
8
này không có cơ mà chỉ có lớp cân ngang bảo vệ thành bụng đối với áp lực
của ổ bụng. Khi áp lực ổ bụng tăng hay các khối cơ của vùng bẹn bị nhão ra
( mất trương lực ) thì áp lực ổ bụng sẽ đẩy phúc mạc và lớp cân ngang lồi ra
ngoài thành bụng tạo một loại thoát vị được gọi là thoát vị bẹn trực tiếp.
Thoát vị này đa số xãy ra ở người lớn, người già thành bụng nhão, ở những
người khuân vác nặng bị tăng áp lực ổ bụng thường xuyên, ở những phụ nữ
sinh nhiều lần thành bụng bị nhão. Đối với trẻ em thể thoát vị này chỉ xảy ra
cho trẻ bị nhược cơ bẩm sinh hay trẻ bị liệt cơ trong bệnh sốt bại liệt chiếm 5
% trong tổng số thoát vị bẹn trẻ em.[2]
Hố bẹn ngoài đây là khởi điểm của một loại thoát vị gọi là thoát vị bẹn
gián tiếp bẩm sinh mà đa số trẻ em mắc phải ( 95 % trong tổng số thoát vị bẹn

Keith mô tả cơ chế đóng của bờ dưới cơ chéo bụng trong như sau: khi
gắng sức, bờ dưới cơ chéo bụng trong đi từ trên xuống dưới, hướng về dây
chằng bẹn như một bức bình phong, tăng cường sức chống đỡ thêm cho thành
sau ống bẹn. Sự mô tả của Keith được tất cả các tác giả hiện đại chấp nhận.
Tuy nhiên nếu khảo sát sự đi xuống của cân cơ chéo bụng trong riêng lẽ thì
quả thật tự nó không đủ để bảo vệ ống bẹn.
Brandon nhận thấy phần trong của cơ chéo bụng trong cấu tạo chủ yếu
là cân do đó ít di động. Chính vì vậy nên luôn để trống một khoảng ở phân
trong của thành sau ống bẹn, khoảng này nằm bên ngoài bao cơ thẳng bụng.
[12], [26]
1.3.3. Vai trò của cơ ngang bụng.
Năm 1964 Condon nghiên cứu về giải phẫu vùng bẹn cho thấy cung
cân cơ ngang bụng có dạng uốn cong lên trên ở trạng thái nghĩ và có dạng
thăng khi cơ ngang bụng và cơ chéo bụng trong ở co thắt. Chính vì vậy khi co
10
thắt cung cân cơ ngang bụng áp sát vào dây chằng bẹn nhằm che phủ thừng
tinh và che chở thành sau ống bẹn.
Ngoài ra các tác giả còn nêu ra cơ chế của cơ ngang bụng và cơ chéo
bụng trong có tác dụng như một cơ vòng ở lỗ bẹn sâu. Khi cơ ngang bụng co
thắt, sẽ kéo vòng mạc ngang lên trên và ra ngoài khiến lỗ bẹn sâu được đóng
kín quanh các cấu trúc của thừng tinh. Khi thực hiện động tác kéo lỗ bẹn sâu
lên trên và ra ngoài sẽ lấy cơ chéo bụng trong làm điểm tựa. Để cơ chế này
được hiệu quả, mạc ngang và cấu trúc của nó phải được di động bên dưới cơ
chéo bụng trong và cơ chéo bụng ngoài.
Bất cứ phương pháp phẫu thuật nào nếu cố định mạc ngang hoặc lỗ bẹn
sâu vào một cấu trúc nông hơn sẽ phá hủy cơ chế bảo vệ ống bẹn của cơ
ngang bụng.[12], [26]
1.3.4. Vai trò của mạc ngang.
Các tác giả hiện đại như: Anson, Morgan, McVay, Harkins, Lytle…
đồng ý với nhau về vai trò quan trọng của mạc ngang. Đây là thành phân nằm

1.4.2. Nguyên nhân mắc phải.
Hiện nay với sự tiến bộ trên nhiều lĩnh vực khoa học, cho thấy thoát vị
bẹn không đơn giản chỉ là sự khiếm khuyết bẩm sinh như tồn tại ống phúc
tinh mạc mà còn rất nhiều nguyên nhân khác đưa đến thoát vị bẹn gián tiếp
hoặc thoát vị bẹn trực tiếp, hoặc phối hợp.
1.4.2.1. Sự suy yếu của các lớp cân – cơ – mạc của thành bụng.
Độ bền và sức chịu lực của các lớp cân – mạc ở vùng bẹn tùy thuộc vào
tình trạng của các sợi Collagen tạo nên chúng. Collagen là một mô sống, luôn
ở trạng thái cân bằng động giữa hai quá trình tổng hợp và phân hủy. Read đã
chứng minh được về mặt sinh học tế bào có sự giảm lượng Hydroxyproline,
12
một axit amin quan trọng cấu thành Collagen ở các lớp cân mạc của bệnh
nhân thoát vị bẹn, đồng thời cũng phát hiện sự tăng trưởng không bình thường
của Fibroblast được nuôi cấy từ bao cơ thẳng của các bệnh nhân này. Tác giả
đã trích tinh Collagen của bao cơ thẳng (ở xa chổ thoát vị) và chứng minh có
sự giảm kết tủa và nồng độ của Hydroxyproline, làm nghĩ đến một rối loạn
quá trình Hydroxyl hóa và hoạt tính của Lysyl Oxidase, dẫn đến giảm tổng
hợp Hydroxyproline và cuối cùng làm giảm tổng hợp Collagen lẫn thay đổi
các tính chất lý hóa của nó (thay đổi về chất và lượng).
Hút thuốc lá cũng ảnh hưởng mạnh đến quá trình phân hủy Collagen ở
vùng bẹn. Vào năm 1982, Cannon và Read nhận thấy các bệnh nhân thoát vị
bẹn trực tiếp có hoạt tính của Elastase và Protease trong máu tăng cao hơn
bình thường, bệnh nhân thoát vị gián tiếp cũng có hiện tượng tương tự nhưng
ở mức độ ít hơn. Các men này được phóng thích từ bạch cầu của máu và từ
nhu mô phổi của người nghiện thuốc lá, chúng gây ra sự phân hủy Elastin và
Collagen của bao cơ thẳng, mạc ngang và mô liên kết vùng bẹn, dẫn đến
thoát vị bẹn [26], [39].
1.4.2.2. Tăng áp lực ổ bụng.
Khác với quan niệm của Cooper (1804), các nghiên cứu hiện nay cho
rằng sự tăng áp lực ổ bụng chỉ là một yếu tố phụ trợ. Điều quan trọng là khi

Loại 1: Thoát vị bẹn gián tiếp, lỗ bẹn sâu bình thường như ở trẻ em.
Loại 2: Thoát vị gián tiếp, lỗ bẹn sâu giãn, thành sau còn vững.
Loại 3: Khiếm khuyết thành sau ống bẹn (Thoát vị bẹn trực tiếp, thoát
vị bẹn gián tiếp +thành sau giãn, thoát vị đùi).
14
Loại 4: Thoát vị tái phát.
1.6. Chẩn đoán.
1.6.1. Lâm sàng.
1.6.1.1 Triệu chứng cơ năng.
Hầu hết thoát vị bẹn không có triệu chứng gì cho đến khi bệnh nhân
phát hiện được một khối phồng ở vùng bẹn. Một số ít bệnh nhân có thể mô tả
là bị đau và có khối phồng ở vùng bẹn khi nâng vật nặng, khi rặn hay khi
đứng lên. Cũng có khi thoát vị bẹn được phát hiện trong lúc đi khám sức
khỏe. Một số bệnh nhân mô tả là có cảm giác co kéo hoặc bị đau lan xuống
bìu, nhất là đối với thoát vị bẹn gián tiếp. Khi khối thoát vị lớn dần, nó tạo
cảm giác không thoải mái hoặc đau chói và bệnh nhân phải nằm hoặc dùng
tay để đẩy nó vào.
Nhìn chung thoát vị bẹn trực tiếp ít gây nên triệu chứng hơn so với
thoát vị bẹn gián tiếp và cũng ít bị kẹt hay nghẹt hơn. [7], [9], [25].
1.6.1.2 Triệu chứng thực thể.
Triệu chứng đặc hiệu của thoát vị bẹn là nhìn hoặc sờ thấy khối phồng
vùng bẹn khi bệnh nhân đứng hoặc khi ho, rặn. Ngược lại khi nằm hoặc khi
dùng tay đẩy vào thì khối phồng này biến mất.
Trong trường hợp thoát vị nhỏ có thể khó nhận thấy. Khi đó có thể
vùng ngón tay đội da bìu để sờ lỗ bẹn nông, nếu lỗ bẹn nông quá nhỏ không
thể đưa ngón tay vào ống bẹn được thì rất khó xác định khối trồi ra cảm nhận
được khi ho có thực sự là khối thoát vị hay không. Ngược lại, nếu lỗ bẹn nông
quá rộng cũng không tự nó khẳng định là có thoát vị, cần phải sờ thấy một
khối đang chạy xuống trong lòng ống bẹn khi ho hoặc khi rặn thì mới chắc
chắn là có thoát vị bẹn. [7], [9], [25].

1.6.2. Cận lâm sàng.
Việc chẩn đoán xác định thoát vị bẹn hầu như chỉ dựa vào lâm sàng là
đủ, cận lâm sàng sử dụng khi không rõ (vì khối thoát vị quá nhỏ) và dùng để
chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý khác ở vùng bẹn như: Bướu mỡ vùng
bẹn, dãn tĩnh mạch thừng tinh, tràn dịch màng tinh hoàn…
1.6.2.1. Siêu âm:
Thấy được khối thoát vị nằm trong ống bẹn, trường hợp thoát vị bẹn
nghẹt có thể thấy được hình ảnh tắc ruột như: Đoạn ruột phía dưới chỗ nghẹt
xẹp, đoạn ruột phía trên dãn to [36].
1.6.2.2. Chụp CT – Scan:
Cho thấy hình ảnh thoát vị rõ hơn, ngoài ra nó còn giúp chẩn đoán
trong những trường hợp vùng bẹn có một khối không điển hình [32].
1.6.2.3. Chụp X – Quang bụng đứng không chuẩn bị:
Trong trường hợp thoát vị bẹn nghẹt có thể thấy hình ảnh tắc ruột như:
Hình ảnh mức nước – hơi, quai ruột dãn, mờ ổ bụng [7].
1.6.3. Chẩn đoán phân biệt.
Thoát vị bẹn cần chẩn đoán phân biệt với:
Tràn dịch màng tinh hoàn, u mỡ, u nang thừng tinh, tinh hoàn lạc chổ,
giãn tĩnh mạch thừng tinh, ung thư hạch bẹn do di căn, phồng hoặc giả phồng
động mạch đùi, khối máu tụ sau chấn thương, áp-xe cơ thắt lưng chậu, lao
hạch…[12]
1.7. Biến chứng.
1.7.1. Nghẹt ruột.
Nghẹt là tình trạng các tạng chứa đựng trong túi thoát vị không thể đẩy
trả lại vào ổ phúc mạc thường do: dính giữa các phần trong của túi với tạng,
dính giữa cổ túi làm cho tạng không thoát ra được và tạng thoát vị phù nề biến
dạng và dính với túi thoát vị nên không thể thoát ra được.
17
Những bệnh nhân thoát vị bẹn nghẹt có thể không có triệu chứng, ngoại
trừ túi thoát vị to thêm và đau bắt buộc nghĩ đến nghẽn ruột. Nếu nghẹt kèm


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status