Nghiên cứu đặc tính sinh trưởng, phát triển của một số giống ngô lai mới chọn tạo tại Tuyên Quang - Pdf 24


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGÔ THẾ TUYẾN DŨNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN
CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ LAI MỚI CHỌN TẠO TẠI
TUYÊN QUANG

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số : 60.62.01.10 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN ĐIỀN

THÁI NGUYÊN - 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU i
2. Mục tiêu của đề tài 3
3. Yêu cầu của đề tài 3
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 3
4.1. Ý nghĩa khoa học 3
4.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.2. Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống ngô 5
1.2.1. Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống ngô trên thế giới 5
1.2.2. Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống ngô ở Việt Nam 9
1.3. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam 13
1.3.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới 13
1.3.2.Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam 16
1.3.3. Tình hình sản xuất ngô ở Tuyên Quang 17
Chƣơng 2 19
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
2.1. Vật liệu nghiên cứu 19
2.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu 19
2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 20
2.3.1. Nội dung nghiên cứu 20
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu 20
2.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi 22
2.3.3 Phương pháp xây dựng mô hình trình diễn 27
2.4. Phân tích và xử lý số liệu 27
Chƣơng 3 28 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AMBIONET
:
Mạng lưới công nghệ sinh học cây ngô Châu Á
B/c
:
Bắp trên cây
CV %
:
Hệ số biến động
CD
:
Chiều dài bắp
CIMMYT
:
Trung tâm cải tạo ngô và lúa mỳ quốc tế
CSDTL
:
Chỉ số diện tích lá
ĐK
:
Đường kính bắp
FAO
:
Tổ chức nông nghiệp và lương thực Liên Hợp Quốc
H/B

Mạng lưới khảo nghiệm ngô vùng Châu Á
TPTD
:
Thụ phấn tự do
WTO
:
Tổ chức thương mại thế giới
*
:
Có ý nghĩa với độ tin cây 95%
**
:
Có ý nghĩa với độ tin cậy 99%
ns
:
Không có ý nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1. Tình hình sản xuất ngô thế giới năm 2005 - 2011 13
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất ngô của một số nước năm 2010 14
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam năm 1961 – 2011 16
Bảng 1.4. Tình hình sản xuất ngô ở Tuyên Quang 2005 – 2010 18
Bảng 2.1: Nguồn gốc của các giống tham gia thí nghiệm 19
Bảng 3.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống ngô lai vụ
Thu Đông năm 2011 và vụ Xuân 2012 tại tỉnh Tuyên Quang 29
Bảng 3.2. Một số chỉ tiêu về hình thái và sinh lý của các giống ngô lai tham
gia thí nghiệm trong vụ Thu Đông 2011 và vụ Xuân 2012
33
Bảng 3.3. Số lá và chỉ số diện tích lá của các giống ngô lai tham gia thí

Angola (84%), Indonesia(79%), Ấn Độ (77%) (Ngô Hữu Tình, 2003)
[15]. Không chỉ cung cấp lương thực cho con người, ngô còn là nguồn thức
ăn quan trọng cho chăn nuôi, 66% sản lượng ngô của thế giới được dùng làm
thức ăn cho chăn nuôi (Bùi Mạnh Cường, 2007)[4].
Ngoài ra ngô còn được sử dụng làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
thực phẩm (sản xuất rượu, cồn, tinh bột, bánh kẹo…). Có khoảng 670 mặt hàng được
chế biến từ ngô. Hàng năm ở Mỹ sử dụng 18% tổng lượng ngô để sản xuất tinh bột,
37% sản xuất cồn, 5,8% sản xuất bánh kẹo (Nguyễn Thế Hùng, 2006) [8].
Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, ngô là nguồn
nguyên liệu quan trọng để chế biến Ethanol một nguồn nhiên liệu sinh học thay
thế các nguồn nhiên liệu tự nhiên như: Dầu mỏ, than đá đang dần bị cạn kiệt. Sử
dụng Ethanol làm giảm ô nhiễm môi trường vì có lượng khí thải CO
2
thấp hơn
xe chạy xăng gần một nửa.
Do có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và có khả năng thích ứng rộng
với các vùng sinh thái, khả năng chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất
thuận, sâu bệnh, có tiềm năng năng suất cao nên ngô đã được hầu hết các nước
và lãnh thổ trên thế giới gieo trồng và phát triển không ngừng. Năm 1961 diện
tích trồng ngô trên thế giới chỉ đạt 105,48 triệu ha với tổng sản lượng là 205,00
triệu tấn, nhưng đến năm 2010 diện tích đã đạt 161,9 triệu ha với sản lượng
844,35 triệu tấn (FAO, 2011) [22]. 2
Ở Việt Nam, ngô là cây lương thực quan trọng thứ 2 sau cây lúa và là
nguồn thức ăn chính phục vụ cho chăn nuôi. Trong những năm qua, cây ngô
đã được mở rộng diện tích, chuyển đổi cơ cấu giống, thâm canh và áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác để cải thiện năng suất.
Những tiến bộ về sản xuất ngô ở Việt Nam thể hiện rất rõ trong giai đoạn

chọn tạo tại tỉnh Tuyên Quang”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định được giống ngô lai có triển vọng để giới thiệu cho sản
xuất ngô tại Tuyên Quang
3. Yêu cầu của đề tài
- Xác định được các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của các giống thí nghiệm.
- Đánh giá được các đặc điểm hình thái và sinh lý của các giống thí nghiệm.
- Đánh giá được khả năng chống chịu (chống chịu sâu bệnh, chống đổ)
của các giống thí nghiệm.
- Xác định được các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các
giống thí nghiệm.
- Xác định được mối tương quan giữa một số đặc tính nông học với các
yếu tố cấu thành năng suất với năng suất của giống tham gia thí nghiêm.
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học xác định được giống
ngô phù hợp với điều kiện sinh thái của tỉnh Tuyên Quang.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu
khác về cây ngô ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài góp phần làm đa dạng thêm tập đoàn giống ngô phục vụ sản xuất
ngô tại Tuyên Quang. 4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong sản xuất nông nghiệp giống là một nhân tố quyết định năng suất,

1.2.1. Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống ngô trên thế giới
Cây ngô là cây giao phấn đã tồn tại ở châu Mỹ hàng chục ngàn năm nay, ngay
khi Columbus mang ngô về châu Âu, giá trị lương thực của cây ngô đã được
khẳnng định. Nhưng phải tới thế kỷ XVIII, tức sau khi Columbus mang ngô về
châu Âu hơn 2 thế kỷ, loài mới có những phát hiện quan trọng về cây ngô.
Năm 1716, Cotton Mather, là người đầu tiên tiến hành thí nghiệm về
giới tính của cây ngô, đã quan sát thấy được sự thụ phấn chéo của cây ngô ở
Masachusettes. Tám năm sau Mather, Paul Đaly đã đưa ra nhận xét về giới
tính của cây ngô và cho rằng gió đã giúp ngô thực hiện quá trình thụ phấn
(Ngô Hữu Tình và cộng sự, 1997) [15].
Năm 1766, Koeleviter lần đầu tiên miêu tả hiện tượng tăng sức sống của
con lai ở cây ngô, khi tiến hành lai các cây trồng thuộc chi Nicotiana,
Dianthus, Vurbascum, Mirabilic và Datura với nhau (Stuber, 1994) [26].
Hiện tượng ưu thế lai ở cây ngô được các nhà khoa học quan tâm từ rất sớm.
Thực hành tạp giao đầu tiên ở ngô với mục đích nâng cao năng suất hạt được
thực hiện bởi John Lorain, năm 1812 ông đã nhận thấy rằng việc trộn lẫn các
loài ngô khác nhau như người da đỏ đã làm sẽ cho năng suất ngô cao hơn.
Tuy nhiên người đầu tiên đưa ra lý thuyết về hiện tượng ưu thế lai là Charles
Darwin vào năm 1871, ông nhận thấy sự hơn hẳn của các cây giao phấn so
với các cây tự thụ phấn về chiều cao, tốc độ nẩy mầm của hạt, số quả trên cây,
chống chịu với điều kiện bất thuận và năng suất hạt.
Việc nghiên cứu, ứng dụng ưu thế lai trong chọn tạo giống được bắt đầu
từ năm 1876 bởi nhà nghiên cứu người Mỹ W. J. Beal. Ông đã thu được các
cặp con lai hơn hẳn các cặp bố mẹ về năng suất từ 10 - 15%. 6
Năm 1877, Charles Darwin sau khi làm thí nghiệm so sánh hai dạng ngô tự
thụ và giao phối đã kết luận: “Chiều cao cây ở dạng ngô giao phấn cao hơn 19%
và chín sớm hơn 9% so với dạng tự phối” (Hallauer and Miranda, 1986) [23].

cao (QPM) đã được chọn tạo thanh công sau khi khám phá ra đột biến gen lặn
Opaque 2 và gen trội không hoàn toàn Floury 2 ở ngô. Những gen này quy
định hàm lượng đạm, đặc biệt là hàm lượng Lizine và Tryptophan, đã giải
quyết đòi hỏi của thị trường ngô ngày càng cao theo hướng tăng diện tích ở
mức độ nhất định đi đôi với tăng năng suất và chất lượng.
Giai đoạn đầu nhiều chương trình quốc gia, tổ chức quốc tế, cá nhân tập
trung nghiên cứu giống ngô giàu đạm nội nhũ mềm (nội nhũ xốp). Nhưng các
chương trình này đều thất bại vì không nâng cao được tỷ lệ và chất lượng đạm,
sâu bệnh nhiều, bắp dễ bị thối, bảo quản trong kho dễ bị sâu mọt phá hại và dễ bị
mất sức nảy mầm, lâu khô. Cuộc cách mạng về ngô QPM, nội nhũ cứng chính
thức bắt đầu cách đây 21 năm. Các nhà khoa học ở Trung tâm cải tạo giống ngô
và lúa mì quốc tế (CIMMYT) và một số nhà tạo giống đã phải tìm ra những
hướng đi khác. Bằng những phương pháp tạo giống đặc biệt khắc phục những
nhược điểm của ngô QPM nội nhũ mềm và xác định đột biến gen Opaque 2 sử
dụng có hiệu quả nhất. Các giống ngô QPM có ưu điểm đặc biệt là hàm lượng
Triptophan (0,11%), Lysine (0,475%) và Protein (11%) cao hơn rất nhiều so với
ngô thường (tỷ lệ này ở ngô thường là 0,05; 0,225 và 9,0%).
Cho đến nay nhiều nước trên thế giới đang tập trung nghiên cứu và ứng
dụng các giống ngô QPM như Mêhicô, Trung Quốc, Việt Nam
Ngô lai là một thành tựu khoa học cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế
thế giới. Ngô lai là “cuộc cách mạng xanh” của nửa đầu thế kỷ 20 đã làm tăng
sản lượng ngũ cốc một cách rõ rệt. Ngô lai đã tạo ra bước nhảy vọt về sản
lượng trước lúa mỳ nhiệt đới hàng thập kỷ, song giai đoạn đầu nó chỉ phát
huy hiệu quả ở Mỹ và các nước phát triển. 8
Có thể nói ngô lai đã thành công rực rỡ ở Mỹ. Các nhà di truyền, cải
lương giống ngô của Mỹ đã sớm thành công trong việc chọn lọc và lai tạo
giống loại cây trồng này. Cuối thế kỷ 19, Mỹ đã có 770 giống ngô chọn lọc,

tumefaciens, ứng dụng các kỹ thuật RAPD, SSP để phân tích đa dạng di
truyền và phân nhóm ưu thế lai của giống (Trần Thị Thêm, 2007) [18].
Tiến bộ kỹ thuật công nghệ sinh học hiện đại được áp dụng vào công tác
chọn tạo giống đã giúp các nhà khoa học tạo ra những giống ngô chuyển gen.
Ngô biến đổi gen được đưa vào canh tác đại trà từ năm 1996, mang lại lợi ích
ổn định, đã đóng góp một lượng ngô đáng kể làm nhiên liệu sinh học và thức
ăn gia súc ở Mỹ. Năm 2007, diện tích trồng ngô chuyển gen trên thế giới đã
đạt 35,2 triệu ha; riêng ở Mỹ đã lên đến 27,4 triệu ha (Phan Xuân Hào, 2008)
[6]. Trong những năm gần đây ngô biến đổi gen có mức tăng đáng kể ở các
thị trường truyền thống như: Mỹ, Canada, Achentina, Nam Phi, Tây Ban Nha,
Philippin và Hondura. Ngoài ra còn có các thị trường quan trọng khác mới
quan tâm, phát triển các giống ngô chuyển gen như: Braxin, Mêhicô, Ai Cập,
Kenia, Nigeria Trung quốc, Ấn Độ, Thái Lan
Ngô là cây trồng đầy triển vọng của loài người trong thế kỷ 21. Các nhà
khoa học trên thế giới vẫn không ngừng nghiên cứu, chọn tạo ra những giống
ngô mới ưu việt hơn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
1.2.2. Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống ngô ở Việt Nam
Cây ngô được di cư vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 17, song do chiến tranh
kéo dài nên công tác nghiên cứu bắt đầu muộn hơn so với các quốc gia khác
trên thế giới.
Những năm đầu sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc các nhà khoa học
của học Viện Nông Lâm đã tiến hành điều tra các loài phụ và giống ngô địa
phương, thu thập mẫu giống ở hầu hết các tỉnh. Trên cơ sở những kết quả
đánh giá các giống ngô địa phương các nhà khoa học đã rút ra được các giống 10
tốt phục vụ sản xuất như: Gié Bắc Ninh, ngô Việt Trì, ngô Vạn Xuân (Ngô
Hữu Tình, 2009) [16].
Việt Nam tiếp cận với ngô lai không phải là muộn, ngay từ những năm 60

giống ngô lai không quy ước là: LS-5, LS-6, LS-8, bộ giống ngô lai này gồm
những giống chín sớm, chín trung bình và chín muộn, cho năng suất từ 3-7
tấn/ha, thích ứng với nhiều vùng trong cả nước, dễ sản xuất hạt giống, giá
giống rẻ. Đây là bước chuyển tiếp quan trọng từ giống thụ phấn tự do sang
giống lai quy ước.
Từ năm 1994 đến nay, Viện nghiên cứu ngô đã lai tạo được nhiều giống
ngô lai có tiềm năng năng suất cao (10 - 12 tấn), có thời gian sinh trưởng khác
nhau phục vụ cho các vùng và mùa vụ trong cả nước. Trong đó lai tạo giống
có thời gian sinh trưởng ngắn là những kết quả có ý nghĩa lớn đối với cuộc
cách mạng mùa vụ của nước ta.
- Nhóm giống dài ngày: (LVN10 được công nhận quốc gia năm 1994),
LVN98 (2002), HQ2000 (2004),…
+ Nhóm giống trung ngày: LVN12 công nhận năm 1995, LVN17 (1999),
T9 (2004), VN8960( 2004), LCH 9(2004), LVN 145( 2007),…
+ Nhóm giống ngắn ngày: LVN20 công nhận năm 1998, LVN25 (2000),
LVN99 (2004),V98 - 1 (2004), VN6 (2005),…
Phần lớn giống ngô mới đang được mở rộng nhanh ra sản xuất, đặc biệt
là các giống ngô LVN 99, LVN 9, VN 8960, LVN 145,
Hiện nay nhiều tổ hợp lai có triển vọng với tiềm năng năng suất hơn 10
tấn/ha đang được sản xuất và thử nghiệm trên phạm vi cả nước như: LVN14,
LVN15, SC184, TB61, TB66, VN885, SX2017, SX2004, TT04B-1
Nhờ nỗ lực không ngừng trong nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật trong sản xuất, đến năm 2009 giống ngô lai do Việt Nam chọn tạo đã
chiếm 65% diện tích trồng ngô của cả nước. 12
Cùng với việc ứng dụng ưu thế lai trong quá trình chọn tạo giống, các
nhà khoa học nghiên cứu ngô ở Việt Nam bước đầu đạt được một số kết quả
trong công tác chọn giống bằng công nghệ sinh học: tạo dòng thuần từ nuôi

1.3. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây trồng có nền di truyền rộng nên có khả năng thích ứng với nhiều
vùng sinh thái khác nhau từ 55
0
bắc bán cầu đến 42
0
nam bán cầu, chính vì vậy
ngô được trồng ở 140 nước trên thế giới, trong đó có 38 nước là các nước phát
triển còn lại là các nước đang phát triển (Báo cáo tổng kết Số 29 của ISAAA) [1].
Do nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của cây ngô trong nền kinh
tế nên từ đầu thế kỷ 20 đến nay sản xuất ngô trên thế giới phát triển liên tục cả
về diện tích, năng suất và sản lượng.
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất ngô thế giới năm 2005 - 2011
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
2005
147,5
48,40
713,43
2006
148,8
47,50
706,69

Nƣớc
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
( triệu tấn)
Mỹ
32,96
95,92
316,16
Trung Quốc
32,52
54,60
177,54
Brazil
12,82
43,80
56,06
Mexico
7,15
32,60
23,30
Ấn Độ
7,18
19,58
14,06
Italia
0,93
95,34

và cộng sự (2005) [24] cho biết: Ở Mỹ chỉ còn 48% giống ngô được sử dụng
được chọn tạo theo công nghệ truyền thống, 52% là bằng công nghệ sinh học.
Năm 2007, diện tích trồng ngô chuyển gen ở Mỹ đạt 27,4 triệu ha chiếm 73%
diện tích trồng ngô (Phan Xuân Hào, 2008) [6].
Mỹ cũng là nước xuất khẩu ngô lớn nhất thế giới. Năm 2009, lượng ngô
xuất khẩu trên thị trường thế giới là 85 triệu tấn, trong đó Mỹ xuất khẩu 53,5
triệu tấn chiếm 62,9%.
Trung Quốc là nước đứng thứ 2 trên thế giới về sản xuất ngô. Năm 2010,
diện tích trồng ngô của Trung Quốc là 32,52 triệu ha, chiếm 19,15% diện tích
trồng ngô thế giới, sản lượng đạt 177,54 triệu tấn, chiếm khoảng 20,0% sản
lượng ngô toàn thế giới.
Sản xuất ngô trên thế giới có sự khác biệt rất lớn về năng suất giữa các
nước phát triển và các nước đang phát triển. Năng suất ngô trung bình của các
nước phát triển là 7,8 tấn/ha, cao hơn năng suất ngô trung bình của thế giới,
còn các nước đang phát triển năng suất là 2,7 tấn/ha. Nguyên nhân chính dẫn
đến sự chênh lệch này là do sự khác biệt về khoa học kỹ thuật. Ở các nước phát
triển 90-100% diện tích ngô được trồng bằng các giống lai có ưu thế lai cao,
trong khi đó các nước đang phát triển chủ yếu là trồng các giống thụ phấn
tự do, diện tích trồng giống ngô lai chỉ chiếm 37% diện tích. Ngoài ra ở các
nước đang phát triển do điều kiện kinh tế khó khăn, khả năng đầu tư thâm
canh thấp nên không khai thác hết tiềm năng năng suất của giống.
Theo dự báo của Viện nghiên cứu lương thực Thế giới vào năm
2020 tổng nhu cầu ngô thế giới là 852 triệu tấn, trong đó 15% dùng làm lương
thực, 69% dùng làm thức ăn chăn nuôi, 16% dùng làm nguyên liệu cho công
nghiệp. Ở các nước phát triển chỉ dùng 5% ngô làm lương thực nhưng ở các 16
nước đang phát triển tỷ lệ này là 22%. So với năm 1997, năm 2020 nhu cầu
ngô thế giới tăng 45%, nhu cầu ngô tăng chủ yếu ở các nước đang phát triển

3.854,5
>90
2007
1.096,1
39,3
4.303,2
>90
2008
1.125,9
40,3
4.531,7
>90
2009
1.08,2
40,9
4.371,7
>95
2010
1.126,9
41,1
4.606,8
>95
2011
1.117,2
42,9
4.799,3
>95
Nguồn: FAOSTAT, 2011[22] ; Tổng cục thống kê, 2012
Năm 1961 Diện tích trồng ngô của nước ta chỉ có 260,2 nghìn ha năng
suất bình quân đạt 11,2 tạ/ha, sản lượng đạt 292,2 nghìn tấn, giai đoạn này

trong những cây trồng chính trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh.
Sản xuất Nông nghiệp của Tuyên Quang nói chung và sản xuất ngô
nói riêng gặp rất nhiều khó khăn về thủy lợi và giao thông vận chuyển. Cây
ngô được trồng 3 vụ trong năm (vụ Đông Xuân, vụ Xuân, vụ Thu Đông) trên
tất cả các loại đất: đất nương rẫy, gò đồi, đất phù sa ven sông, suối
Những năm 1995 trở về trước, sản xuất ngô chủ yếu trồng các giống thụ
phấn tự do, giống địa phương có thời gian sinh trưởng dài, năng suất thấp. Cùng 18
với sự chuyển biến của đất nước, sau một thời gian, với sự nỗ lực của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân địa phương, có sự tham gia tích cực của đội ngũ các
nhà khoa học kỹ thuật, Tuyên Quang đã mạnh dạn thay đổi cơ cấu cây trồng, áp
dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đặc biệt là thay thế các giống ngô địa
phương bằng các giống ngô lai năng suất cao như: LVN10, LVN11, LVN12
và một số giống ngô nhập nội như: Bioseed 9607, DK999, NK4300
Các thành tựu khoa học kỹ thuật mới đã được nông dân ứng dụng vào
sản xuất nên diện tích, năng suất và sản lượng ngô ở Tuyên Quang tăng nhanh
trong những năm gần đây.
Bảng 1.4. Tình hình sản xuất ngô ở Tuyên Quang 2005 – 2010
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(tấn)
2005
14.700
40,7

năng suất và sản lượng cũng không ngừng tăng lên. Diện tích trồng ngô là
16,3 nghìn ha tăng so với năm 2005 là 10,8%, năng suất đạt 42,3 tạ/ha tăng
lên so với năm 2005 là 3,9% và sản lượng đạt 71,4 nghìn tấn tăng so với
năm 2005 là 19,4%.

Trích đoạn Số lá trên cây Khả năng chống chịu của các giống ngô lai trong thí nghiệm vụ Thu Đông Sâu đục thân ngô (Chilo partellus ) Khả năng chống đổ của các giống trong thí nghiệm Trạng thái cây
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status