nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây dẻ gai ấn độ (castanopsis indica a.d.c.) tại huyện lục nam tỉnh bắc giang - Pdf 24


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
 SỐ LIỆU THÔ

NGUYỄN THANH HẢI
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH TỰ NHIÊN CỦA CÂY DẺ
GAI ẤN ĐỘ (Castanopsis Indica A.D.C)
TẠI HUYỆN LỤC NAM TỈNH BẮC GIANG


sinh không hợp lý đã và đang làm cho rừng tự nhiên suy giảm cả về số lượng
và chất lượng. Ở Việt Nam, năm 1943 diện tích rừng còn khoảng 14,3 triệu
ha, tỷ lệ che phủ khoảng 43%. Năm 2002, theo số liệu thống kê của Tổng cục
lâm nghiệp Việt Nam, cả nước còn 11,8 triệu ha rừng, với độ che phủ tương
ứng là 35,8%. Đến năm 2010, đất rừng của cả nước tăng cả về độ che phủ và
diện tích đất có rừng; diện tích rừng là 13,4 triệu ha và độ che phủ đạt 39,5%.
Do vậy, việc tái sinh tự nhiên là một trong những biện pháp và nhiệm vụ
quan trọng [29], [32].
Cấu trúc phản ánh kết quả của quá trình đấu tranh và thích ứng lẫn
nhau giữa các loài trong rừng. Cấu trúc là đặc điểm “Nổi bật nhất, là tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
nhân chi phối sự tái sinh và diễn thế rừng” (Nguyễn Văn Trương, 1993) [34].
Do đó phân tích được đặc điểm cấu trúc của một kiểu rừng là yêu cầu đầu
tiên của việc xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh, nhằm tác động vào
rừng có định hướng như: Xúc tiến tái sinh, làm giàu rừng, nuôi dưỡng rừng
hoặc đề xuất phương thức trồng rừng mô phỏng tự nhiên để cây Dẻ gai ấn
Độ sinh trưởng và phát triển thuận lợi.
Tổ thành tầng cây cao là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến
cấu trúc sinh thái và hình thái của rừng, do đó khi nghiên cứu về tổ
thành rừng cần quan tâm đến tổ thành tầng cây cao. Tổ thành rừng là chỉ
tiêu quan trọng dùng để đánh giá mức độ đa dạng sinh học, tính bền
vững, tính ổn định của hệ sinh thái. Cấu trúc tổ thành có ảnh hưởng lớn
đến các định hướng kinh doanh, lợi dụng rừng, đặc biệt là ảnh hưởng
đến khả năng tái sinh rừng. Vì vậy, nghiên cứu cấu trúc tổ thành được
xem như công việc quan trọng đầu tiên trong quá trình nghiên cứu cấu
trúc rừng và đề xuất, áp dụng các biện pháp bảo tồn và phát triển rừng
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng rừng.

cả về lí luận và thực tiễn
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu chỉ ra đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây Dẻ Gai Ấn Độ làm
cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp bảo vệ tái sinh tự nhiên cho loài này.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Chỉ ra được đặc điểm sinh vật học của cây Dẻ gai Ấn Độ.
- Chỉ ra được đặc điểm sinh thái học và vật hậu của cây Dẻ gai Ấn Độ.
- Đưa ra được đặc điểm tái sinh của cây Dẻ gai Ấn Độ.
- Dựa trên kết quả nghiên cứu, đề xuất các biện pháp bảo vệ tái sinh
của cây Dẻ gai Ấn Độ tái sinh tự nhiên tại xã Lục Sơn huyện Lục Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở khoa học
Khái niệm về tái sinh rừng: Tái sinh rừng là một quá trình sinh học
mang đặc thù của hệ sinh thái rừng. Đó là sự xuất hiện các thế hệ cây con của


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6
+ Kiểu I
B
: Tràng cỏ và cây bụi.
+ Kiểu I
C
: Tràng cỏ và cây bụi đã xuất hiện một số loài cây tái sinh.
- Kiểu II: Là rừng thứ sinh phục hồi sau khai thác hoặc sau nương
rẫy, bao gồm các cây tiên phong ưa sáng mọc nhanh và rừng đang tiếp tục
phát triển.
+ Kiểu II
A
: Là trạng thái rừng phục hồi rừng còn non, bao gồm những
cây
tiên phong ưa sáng hoặc có
D

1.3
≤ 10cm và

G <
10

m
2
/ha.
+ Kiểu II

là dây leo, bụi rậm, tre nứa xen lẫn và có độ tàn che < 0,3. Tổng tiết diện
ngang < 10 m
2
/ha. Tổng tiết diện ngang của những cây có D
1.3
≥ 40cm là ≤ 2
m
2
/ha.
- Kiểu III
A
2
: Là rừng bị khai thác kiệt nhưng đã có thời gian phục hồi
nên
đã hình thành tầng cây tương lai, có độ tàn che 0,3-0,5. Tổng tiết diện
ngang từ 10-16 m
2
/ha. Tổng tiết diện ngang của những cây có D
1.3
≥ 40cm là
≤ 2 m
2
/ha.
- Kiểu III
A
3
: Là rừng bị khai thác mạnh, cấu trúc rừng ít nhiều đã bị
phá vỡ, rừng có 2 tầng trở lên, rừng còn chất lượng khai thác, có độ tàn che
0,5-0,7. Tổng tiết diện ngang từ 16-21 m
2

xúc tiến tái sinh. Tuỳ theo điều kiện cụ thể và mục đích tái sinh mà áp
dụng phương thức tái sinh cho phù hợp (Nguyễn Xuân Cự và Đỗ Đình
Sâm, 2010) [10].
Tuy nhiên để rừng tái sinh được cần có những biện pháp bảo vệ và
phát triển rừng hợp lý. Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004 quy định:
“Bảo vệ rừng là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
Hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm nguyên tắc quản lý rừng
bền vững; kết hợp bảo vệ và phát triển rừng với khai thác hợp lý để phát huy
hiệu quả tài nguyên rừng; kết hợp chặt chẽ giữa trồng rừng, khoanh nuôi tái
sinh phục hồi rừng, làm giàu rừng với bảo vệ diện tích rừng hiện có; kết hợp
lâm nghiệp với nông nghiệp và ngư nghiệp; đẩy mạnh trồng rừng kinh tế gắn
với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản nhằm nâng cao giá trị sản phẩm
rừng” (Luật bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004). Như vậy trong luật Bảo vệ
và phát triển rừng quy định là phải có tái sinh rừng thì mới phát triển được
rừng, làm giàu rừng…[26].
1.2. Tình hình nghiên cứu
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trong lĩnh vực sinh thái học, các chuyên gia đã khẳng định rừng là một
hệ sinh thái hoàn chỉnh nhất. Thực vật rừng có sự biến động cả về chất và
lượng khi các yếu tố ngoại cảnh thay đổi. Rừng cây và con người có quan hệ
mật thiết với nhau. Vì vậy, cây rừng được con người quan sát, xem xét,
nghiên cứu từ xa xưa. Một trong khía cạnh con người nghiên cứu để phục hồi
lại rừng là tái sinh rừng. Nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên đã trải qua hàng
trăm năm, nhưng ở rừng nhiệt đới, vấn đề này được đề cập từ năm 1930 trở
lại đây.
Từ đầu thế kỷ 19 khi công nghiệp phát triển mạnh, nhu cầu gỗ ngày
một lớn, con người phải tập trung khai thác rừng tự nhiên và tiến hành tái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ánh sáng của chúng vẫn ảnh hưởng đến cây tái sinh. Những lâm phần đã qua
khai thác, thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ sẽ là trở ngại lớn cho tái
sinh rừng. Ngoài ra Ghent (1969) còn nhận xét: Thảm mục, chế độ thủy
nhiệt, tầng đất mặt quan hệ với tái sinh rừng cũng cần được làm rõ. Hiển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

9
nhiên, trong những trường hợp cụ thể ảnh hưởng của động vật và lửa rừng có
thể gây những tác hại đến TSTN ở mức độ khác nhau [39].
Sự ảnh hưởng của cấu trúc quần tụ tới tái sinh đã được Andel (1981),
chứng minh độ dầy tối ưu cho sự phát triển bình thường cây gỗ là 0,6-0,7m.
Độ khép tán của quần tụ có quan hệ với mật độ và sức sống của cây con.
Trong sự cạnh tranh giữa thực vật về dinh dưỡng khoáng, ánh sáng, ẩm độ tùy
thuộc vào đặc tính sinh vật học, tuổi của mỗi loài và điều kiện sinh thái của quần
thể thực vật [38].
Khi nghiên cứu về mối quan hệ qua lại giữa cây con và quần thụ
Karpov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh tranh về dinh
dưỡng của đất, ánh sáng, độ ẩm và tính chất thuần nhất của quan hệ qua lại
giữa các thực vật tùy thuộc đặc tính sinh vật học, tuổi và điều kiện sinh thái
của quần thể thực vật. Nakhteenko (1973) thì cho rằng sự trùng hợp cao của
sự hấp thụ dinh dưỡng giữa 2 loài có thể gây cho nhau sự kìm hãm sinh
trưởng và làm tăng áp lực cạnh tranh giữa 2 loài.
Nhiều nghiên cứu tái sinh tự nhiên của rừng đều nhận thấy rằng cỏ và
cây bụi, qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng
của tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây tái sinh của các loài cây gỗ.
Những quần thụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng, thảm cỏ phát
triển kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ non không đáng kể. Ngược
lại những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện phát
sinh mạnh mẽ, trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở ngại rất lớn cho

sinh vốn có của nhiệt đới một cách có hiệu quả mà không phá vỡ nó.
Cùng quan điểm với Catinot, Rovet (1984) đã đưa ra những yêu cầu tối
thiếu, bắt buộc các giấy phép khai thác rừng phải thể hiện được cụ thể là:
muộn nhất là 2 năm trước khai thác phải tiến hành điều tra kết hợp với chặt
bỏ dây leo cây bụi; chỉ được khai thác những lâm phần có ít nhất 10 - 15 cây
thuộc loại giá trị kinh tế có D1.3 ≥ 60cm và phải có tái sinh đạt yêu cầu; phải
để lại ít nhất 5 - 7 cây mẹ gieo trồng có kích thước lớn, phân bố đều trên diện
tích; trong trường hợp cần thiết các lỗ trống hình thành do khai thác phải
được mở rộng thêm để thúc đẩy xúc tiến tái sinh tự nhiên. Quá trình sinh
trưởng, phát triển cây tái sinh, trên các lỗ trống phải được kiểm soát và cần thiết
phải chăm sóc ít nhất 10 năm sau khai thác.
Phân bố cây tái sinh tự nhiên là một vấn đề mà nhiều công trình đề cập
đến, đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Richards (1965), tác giả cuốn
rừng mưa nhiệt đới, Roller (1974) tổng kết các công trình nghiên cứu về phân
bố số cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét: Trong các ô tiêu chuẩn kích thước
nhỏ (1 x 1m, 1 x 1,5m) cây tái sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít
có phân bố điểm. Ở Châu Phi, trên cơ sở các số liệu thu thập Taylor (1954),
Barnard (1955) xác định số lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt,
cần thiết phải bổ sung bằng trồng rừng nhân tạo. Ngược lại, các tác giả
nghiên cứu về tái sinh tự nhiên nhiệt đới Châu Á như Bava (1954), Budowski
(1956), Kationt (1965) lại nhận định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

11
đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra
cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng [35].
Điều tra tái sinh tự nhiên có nhiều phương pháp khác nhau, trong đó
nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống do. Tác giả
Lowdermilk (1972) đã đề nghị, với diện tích ô dạng bản thông thường từ 1 -

đếm được xác lập theo từng nhóm, mỗi nhóm gồm 4 ô, bố trí liên tiếp theo
kiểu phân bố hệ thống không đồng đều. Như vậy các ô vừa đại diện được đầy
đủ toàn bộ khu vực điều tra, mặt khác những nhân tố điều tra vừa có dạng
gần với phân bố chuẩn.
Qua những kết quả nghiên cứu về tái sinh rừng của các nhà sinh thái
học và lâm sinh học đã làm sáng tỏ phần nào các đặc điểm tái sinh, các nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

12
tố ảnh hưởng đến tái sinh và những nguyên lý chung để xây dựng phương
thức xúc tiến tái sinh rừng. Tuy nhiên những nghiên cứu về tái sinh rừng
nhiệt đới nói chung vẫn chưa thật đầy đủ hệ thống cho từng loại rừng, từng
trạng thái rừng cụ thể.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, các nhà khoa học Việt Nam bắt đầu
nghiên cứu về tái sinh rừng. Một trong những nhà khoa học của Việt Nam
tiên phong nghiên cứu về tái sinh là Thái Văn Trừng. Trong những công trình
nghiên cứu của ông vào giai đoạn (1963, 1978) về “Thảm thực vật rừng Việt
Nam”, Ông đã nhấn mạnh ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và điều
khiển quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên sinh và thứ sinh. §ång thêi
theo ông, có một nhóm nhân tố sinh thái trong nhóm khí hậu đã khống chế và
điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong thảm thực vật rừng, đó là nhân tố
ánh sáng. Nếu các điều kiện khác của môi trường như đất rừng, nhiệt độ, độ
ẩm dưới tán rừng chưa thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có
những biến đổi lớn và cũng không diễn thế một cách tuần hoàn trong không
gian và thời gian.
Trong giai đoạn 1962 - 1969, Viện Điều tra Qui hoạch rừng đã có điều
tra tình hình tái sinh tự nhiên cho các vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc
Việt Nam như: Yên Bái (1965), Quỳ Châu sông Hiếu Nghệ An (1962 -

phú của tái sinh rừng ở nước ta, tác giả cũng đã nhận xét phương thức khai
thác có ảnh hưởng quyết định đến tái sinh rừng và thực tiễn đã cho thấy:
Thông qua việc xác định tổ thành loài cây giữ lại gieo giống, điều tiết độ
khép tán hợp lý không chỉ có tác dụng điều khiển số lượng, chất lượng tái
sinh mà còn điều khiển được tổ thành loài cây tái sinh phù hợp với ý muốn và
tác giả cũng đã đưa ra đề nghị. Nếu số lượng và chất lượng cây mục đích tái
sinh hiện có không đủ thì cần tiến hành trồng dặm để đảm bảo trữ lượng cho
các luân kỳ khai thác tiếp theo và phương án tối ưu là lựa chọn những loài
cây mục đích phù hợp với loài cây ưu thế của quần thể vì nguồn giống có
nhiều và đã thích hợp với hoàn cảnh sinh thái [25].
Nguyễn Hồng Quân (1984) đã nghiên cứu kết hợp chặt chẽ khai thác
với tái sinh và nuôi dưỡng rừng, đối với rừng không đồng tuổi cần thực hiện
cả 4 nội dung chủ yếu là: Thu hoạch cây thành thục, chặt tái sinh, chặt nuôi
dưỡng và chuẩn hóa cấu trúc rừng về trạng thái mong muốn. Đối chiếu 4 nội
dung nói trên vào thực tế kinh doanh rừng ở nước ta thì cách khai thác của ta
chỉ đạt được một nội dung duy nhất là thu hoạch sản phẩm còn 3 nội dung kia
hầu như bị bỏ rơi nên đã thể hiện rất nhiều nhược điểm như chủng loại cây
phi mục đích ngày càng tăng, kích thước cây tái sinh ngày càng giảm và từ đó
tác giả cũng đã đưa ra những biện pháp trước mắt khắc phục tình trạng trên
để khai thác vẫn bảo đảm được tái sinh và nuôi dưỡng rừng [28].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

14
Vũ Tiến Hinh (1991), khi nghiên cứu về đặc điểm tái sinh của rừng tự
nhiên tác giả đã đề cập đến đặc điểm tái sinh theo thời gian của cây rừng và
ý nghĩa của nó trong điều tra cũng như trong kinh doanh rừng. Tác giả đã sử
dụng phương pháp chặt hết cây gỗ D1.3 ≥ 8cm ở hai ô tiêu chuẩn (một ô là
lâm phần sau phục hồi trên đất rừng tự nhiên sau khai thác kiệt và một ô
thuộc trạng thái rừng IIIA3. Kết quả nghiên cứu tác giả cho biết: Với đối

15
phân bố số lượng cây tái sinh tác giả cho thấy ở rừng giàu, có chất lượng tốt
(rừng loại IV và IIIB) có số cây tái sinh lớn nhất (3.200 - 4.000 cây/ha). Ở
rừng nghèo số cây tái sinh chỉ có 1.500 cây/ha (rừng IIIA1), trong rừng thuần
tre nứa số cây lá rộng tái sinh tự nhiên thấp nhất 527 cây/ha. Trong toàn lâm
phần phân bố lý thuyết của cây tái sinh tự nhiên ở rừng trung bình (IIIA2) cây
tái sinh tự nhiên có dạng phân bố Possion, các loại rừng khác cây tái sinh có
phân bố cụm [8].
Tác giả Nguyễn Văn Trương (1993) đã đề cập đến cơ sở sinh thái rừng
trong tái sinh rừng, ông cho rằng muốn phát huy tái sinh tự nhiên và nhân tạo
thì phải hiểu biết hoàn cảnh sinh thái của các loài cây mục đích mà chúng ta
cần tái sinh. Khi khai thác cây đủ kích thước cho phép đã gây nên một sự
thay đổi đột ngột nguy hại cho cây tái sinh, chỗ trống mở ra làm cho đất nóng
và khô, không cho phép hạt nảy mầm, những hạt nảy mầm thì bị nắng đốt;
đất khô mà chết rụi hết, ngược lại chỗ có ít cây lớn thì lại quá rậm rạp, cây
thảm tươi, dây leo, cây bụi chằng chịt, hạt nảy mầm được thì cây con lại
không có khoảng sống. Tác giả cho rằng ta vẫn đánh giá đúng ý nghĩa kinh tế
và sinh thái của tái sinh tự nhiên nhưng trong hành động thực tiễn thì chính
chúng ta lại vi phạm quy luật sinh thái chi phối chặt chẽ sự tái sinh và tăng
trưởng cây rừng vốn lâu đời thích nghi với hoàn cảnh sinh thái rừng. Vì thế,
tác giả đã nhấn mạnh cần hiểu biết đầy đủ về hoàn cảnh sinh thái để phát huy
tái sinh tự nhiên được tốt nhất [34].
Tiếp tục nghiên cứu vai trò của tái sinh và phục hồi rừng tự nhiên ở các
vùng miền Bắc, Trần Xuân Thiệp (1996) đã cho biết: Ở vùng Tây Bắc, dù ở
vùng thấp hay vùng cao đều có khả năng tái sinh tự nhiên khá tốt về số lượng
cây từ 500 - 8.000 cây/ha. Rừng Tây Bắc thể hiện rõ các mặt ảnh hưởng đến
chất lượng tái sinh, nghèo về trữ lượng, diễn thế rừng ở nhiều vùng xuất hiện
nhóm cây ưa sáng, chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và nhỡ là chủ yếu
và nhóm loài cây lá kim rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ.
Vùng trung tâm tác giả nhận xét sự nghèo kiệt nhanh chóng của rừng đưa đến

cuối cùng tùy thuộc vào đặc tính sinh học của từng loài cây, quy luật lâm học
của rừng, hiệu lực tác động của các biện pháp kinh tế và ảnh hưởng tốt xấu
của từng cách thức khai thác cùng với từng loại dụng cụ máy móc thi công,
không có đầy đủ hiểu biết trên để làm cơ sở lựa chọn con đường tái sinh khai
thác tối ưu chắc chắn không thể đảm bảo được tái sinh [14].
Ngô Văn Trai (1999) đã nghiên cứu đặc điểm tái sinh rừng tự nhiên
sau khai thác chọn làm cơ sở đề xuất một số biện pháp kinh tế xúc tiến tái
sinh tự nhiên cho kinh doanh gỗ lớn ở Lâm trường Trạm Lập huyện K’Bang
– Gia Lai. Tác giả đã có một số kết luận: Cấu trúc cấu thành loài cây gỗ lớn ở
rừng IIIB và IVB trước và sau khai thác không có sự thay đổi lớn. Tổ thành
cây mẹ sau khai thác có quan hệ chặt chẽ với tổ thành loài cây tái sinh. Mật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

17
độ cây tái sinh sau khai thác ở trạng thái IIIB và IVB ở các rừng độ khai thác
khác nhau biến động từ 6.500 - 16.480 cây/ha. Đặc biệt có một số loài cây tái
sinh lớn có tái sinh cao đạt trên 500 cây/ha như: Ràng ràng mít, Re bầu, Giổi
xanh, Thông nàng,…về chất lượng thì tỷ lệ cây tốt ở 2 trạng thái trên chiếm
trên 62,46%, cây cao nhất ở rừng IVB đạt 79%, tỷ lệ cây tái sinh xấu đều
dưới 15%. Các loài cây tái sinh gỗ lớn xuất hiện lớn hơn 50% ở trạng thái
IIIB (cường độ khai thác 26%) là 6 loài và cường độ khai thác là 45% là 6
loài còn trạng thái IVB với cường độ khai thác là 30% là 8 loài và cường độ
khai thác 39% là 7 loài thấp nhất là ở cường độ khai thác 51% chỉ có 5 loài từ
đó tác giả cũng đưa ra một số đề nghị về các biện pháp xúc tiến tái sinh tự
nhiên để kinh doanh gỗ lớn ở Lâm trường Trạm Lập [33].
Họ Dẻ tuy đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Song do địa
hình, tiểu khí hậu từng vùng đã tạo nên khu phân bố riêng. Tình hình sinh
trưởng và phát triển của mỗi vùng đã tạo nên các tài liệu đó chỉ có ý nghĩa
tham khảo, đặc biệt là các tài liệu nghiên cứu tái sinh về từng loài trong họ

C.
- Nhiệt độ tối cao là 37,9
0
C.
- Nhiệt độ tối thấp là 6,3
0
C.
- Độ ẩm không khí trung bình 80 - 85%.
- Lượng mưa tập trung vào tháng 6, 7, 8 chiếm 70% lượng mưa cả
năm. Vào mùa này, hiện tượng úng lụt dễ xảy ra.
Ngoài các yếu tố khí hậu trên, hàng năm xã Lục Sơn còn chịu ảnh
hưởng của gió lớn, kèm theo mây mưa gây ra lũ lụt cục bộ cản trở việc sản
xuất và đi lại của nhân dân.
* Các nguồn tài nguyên
- Tài nguyên nước: Toàn xã có 18,6ha sông suối; 3,7ha đất thủy lợi và
mặt nước chuyên dùng; 11,3ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Đây là nguồn
nước mặt tự nhiên quý giá phục vụ cho một phần nhu cầu sản xuất và sinh
hoạt của nhân dân, nhưng chưa được khai thác một cách triệt để và có hiệu
quả để đưa vào sản xuất và sinh hoạt. Nguồn nước ngầm ở độ sâu trung bình
8m đến 15m, đây là nguồn nước tương đối sạch dùng cung cấp cho nhân dân
trong xã [36].
- Tài nguyên rừng: Xã Lục Sơn có diện tích rừng là 8.324 ha, trong
đó: rừng do cơ quan Bảo tồn Tây Yên tử quản lý 2.351 ha, Công ty Lâm
nghiệp Mai Sơn quản lý 2.868,30 ha, rừng do xã quản lý là 3.104,70 ha, trong
đó có 1.699 ha rừng sản xuất, 165 ha rừng Dẻ. Đây là cây cho thu nhập cao
cho đồng bào dân tộc Lục Sơn, hàng năm sản lượng Dẻ ước tính khoảng 500
triệu đồng. Diện tích trồng rừng kinh tế là 465 ha, chủ yếu là cây Keo lai và
Bạch đàn [36].
- Tài nguyên đất: Theo báo cáo quy hoạch sử dụng đất đai xã Lục Sơn
năm 2011, hiện trạng đất đai xã Lục Sơn được chia chi tiết theo bảng sau:

710,85
1. Đất nông nghiệp
8.775,80
616,80
2.868,30
2.939,70
2.351
0.00
1.1 Đất sản xuất nông
nghiệp
451,80
451,8

1.1.1. Đất trồng cây hàng
năm
232,96
232,96

1.1.2. Đất vườn tạp
38,34
38,34

2.351

1.2.2. Đất rừng sản xuất
4.732,3
165,0
2.868,3
1.699 2. Đất phi nông nghiệp
175,35
31,81
85,9
45,29
12,35

2.1. Đất chuyên dùng
143,59
0,5
85,9
45,29
12,35

2.2. Đất ở
31,76
31,76


20
mỏng, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, đất nghèo dinh dưỡng
và có độ dốc khá. Loại đất này thích hợp cho cây công nghiệp lâu năm và
cây lâm nghiệp [36].
+ Đất ruộng: Chủ yếu là do tích tụ phù sa của các sông suối, đất có tầng
dày, màu xám đen, hàm lượng mùn, đạm ở mức khá, hàm lượng lân, kali ở mức
trung bình đến khá, loại đất này thích hợp cho loại cây lương thực và cây màu
[36].
1.3.2. T
Tình hình kinh tế-xã hội năm 2011 tiếp tục có sự chuyển biến tích cực,
hầu hết trên các lĩnh vực sản xuất Nông-Lâm-Ngư nghiệp, năng suất và sản
lượng, xây dựng cơ bản, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ổn định.
a, Thực trạng phát triển kinh tế
* Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ.
Sản xuất công nghiệp phát triển tăng dần và đã thu được những thành
quả. Những sản phẩm chính như: Xay xát lương thực, gỗ xẻ, cơ khí gò hàn,
đóng mới bàn ghế các loại.v.v [36]
* Sản xuất nông lâm nghiệp.
- Trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng 451,8 ha. Trong đó, Cây
lúa vụ chiêm xuân 196,3 ha, năng suất bình quân 63,8 tạ/ha. Sản lượng
1.252,4 tấn; Bình quân sản lượng lương thực quy thóc đạt 455
kg/người/năm. Tổng giá trị ước cho thu hoạch khoảng 3 tỷ đồng [36].
- Chăn nuôi: Tổng đàn Trâu có 455 con; đàn Bò 136 con; đàn Lợn
6530 con; đàn gia cầm 30 500 con, tăng 25 % so cùng kỳ 2010; đàn Dê 171
con [36].
- Thuỷ sản: UBND xã chỉ đạo tận dụng các diện tích ao hồ để thả cá.
Toàn xã có 16,5 ha cho thu hoạch 38,5 tấn cá các loại [36].
- Lâm nghiệp: Công tác trồng, chăm sóc, khoanh nuôi, bảo vệ rừng tái
sinh được quan tâm chỉ đạo. Trồng mới được 65 ha rừng, trồng rừng tập
trung là theo Quyết định 147/QĐ- CP 65 ha đạt 81,5 % KH năm. Diện tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

22
CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng
Cây Dẻ gai Ấn Độ (Castanopsis Indica A.D.C) ở trạng thái rừng IIIA
2

và IIIA
3
.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Tháng 5/2011 đến tháng 10/2012.
- Địa điểm: Xã Lục Sơn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của cây hạt dẻ gai Ấn Độ.

2.4.5. Khả năng tái sinh của Dẻ gai Ấn Độ ở các trạng thái rừng IIIA
2

IIIA
3
do các tác động của con người
2.4.6. Đề xuất một số biện pháp bảo vệ tái sinh tự nhiên cho cây Dẻ gai Ấn
Độ ở các trạng thái rừng IIIA2 và IIIA3
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm về phương pháp luận
- Về quan niệm tái sinh rừng: Rừng là một hệ sinh thái, tái sinh
rừng là tái sinh của một hệ sinh thái. Tái sinh rừng là quá trình phục hồi
thành phần cơ bản của rừng, biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng là sự
xuất hiện một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn
cảnh rừng, lỗ trống trong rừng, rừng sau khai thác, trên đất rừng sau
nương rẫy…. Phùng Ngọc Lan (1986) [23] tái sinh rừng thúc đẩy quá
trình hình thành cân bằng sinh học trong rừng, đảm bảo cho rừng tồn tại
liên tục và sử dụng tài nguyên rừng bền vững.
- Khái niệm về cây tái sinh được quan niệm trong đề tài này bao
gồm những cây con của loài Dẻ gai Ấn Độ sống dưới tán rừng, chiều cao
thấp hơn tán rừng chính.
- Tái sinh rừng có quy luật riêng và trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau. Tái sinh hạt trải qua
3

giai
đoạn: Ra hoa kết quả và phân tán hạt
giống, giai
đoạn hạt giống nảy mầm, giai đoạn sinh trưởng cây tái sinh.
Giai đoạn sinh

quả của tái sinh tự nhiên phụ thuộc vào qui luật khách quan của tự nhiên.
Quá trình tái sinh tự nhiên thì ít đạt được kết quả mong muốn. Chúng ta
cần phải tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm của tái sinh tự nhiên, nhằm lợi
dụng được năng lực gieo giống và tiểu hoàn cảnh rừng sẵn có đồng thời
kết hợp với các biện pháp bảo vệ tái sinh tự nhiên. Muốn giải quyết vấn
đề trên thì cần phải nắm được các đặc điểm tái
sinh tự nhiên của loài Dẻ
gai Ấn Độ trong từng trạng thái rừng cụ thể.

2.5.2. Phương pháp xác định vị trí nghiên cứu
Căn cứ vào thảm thực vật và địa hình đề tài nghiên cứu chia làm 2 khu:
- Khu vực 1: Trạng thái rừng IIIA
2
có Dẻ gai Ấn độ tái sinh thuộc xã
Lục Sơn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

25
- Khu vực 2: Trạng thái rừng IIIA
3
có Dẻ gai Ấn độ tài sinh thuộc xã
Lục Sơn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
2.5.3. Phương pháp thu thập số liệu
* Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:
Thu thập kế thừa các tài liệu cơ bản về khu vực nghiên cứu có liên
quan đến đề tài.
+ Tài liệu về điều kiện tự nhiên và dân sinh kinh tế trong khu vực
nghiên cứu.
+ Các loại bản đồ chuyên dùng của khu vực nghiên cứu.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status