Phân tích đánh giá hiện trạng môi trường nước sông Đà đoạn chảy qua địa phận tỉnh Hòa Bình và đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi trường - Pdf 26


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN Ngô Thị Kim Lan
PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG
MÔI TRƢỜNG NƢỚC SÔNG ĐÀ ĐOẠN CHẢY QUA
ĐỊA PHẬN TỈNH HÒA BÌNH VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ
GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG
MÔI TRƢỜNG NƢỚC SÔNG ĐÀ ĐOẠN CHẢY QUA
ĐỊA PHẬN TỈNH HÒA BÌNH VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ
GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60 42 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THU HÀ
Hà Nội - Năm 2012
2
MỤC LỤC

3.2.3 Độ dẫn 36
3.2.4 Độ đục 37
3.2.5 Độ muối 38
3.2.6 Hàm lượng oxi hòa tan ( DO) 39
3.2.7 Nhu cầu oxi hóa hóa học ( COD ) 40
3.2.8 Hàm lượng NO
3
-
41
3.2.9 Hàm lượng NH
4
+
42
3.2.10 Hàm lượng PO
4
3-
43
3.3 Thành phần loài sinh vật nổi 49
3.3.1 Thành phần loài Thực vật nổi 49
3.3.2 Thành phần loài Động vật nổi 56
4. Đánh giá chất lƣợng nƣớc tại các điểm nghiên cứu 62
4.1 Đánh giá bằng các thông số thủy lí hóa học. 62
4.2 Đánh giá bằng chỉ số đa dạng 63
4.2.1 Tảo và vi khuẩn lam 63
4.2.2 Động vật nổi 64
4.3 Nguyên nhân, hậu quả và các giải pháp nâng cao chất lƣợng
môi trƣờng nƣớc 65
4.3.1 Nguyên nhân 65
4.3.2 Hậu quả của suy giảm chất lượng nước. 67
4.3.3 Để xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng môi trường nước. 67

Bảng 7.
Mật độ số lƣợng thực vật nổi
51
Bảng 8.
Danh sách động vật nổi các địa điểm nghiên cứu
53
Bảng 9.
Mật độ số lƣợng động vật nổi
57
Bảng 10
Kết quả đánh giá theo hệ thống Lee và Wang
60
Bảng 11
Chỉ số D về TVN tại các ĐNC
61
Bảng 12
Chỉ số D về ĐVN tại các ĐNC
61

DANH MỤC CÁC HÌNH 2
Hình số

tại các điểm nghiên cứu
39
Hình 10
Hàm lƣợng NH
+
4
tại các điểm nghiên cứu
40
Hình 11
Hàm lƣợng PO
3-
4
tại các điểm nghiên cứu
41
Hình 12
Sự biến thiên nhiệt độ qua các năm nghiên cứu
42
Hình 13
Sự biến thiên nồng độ pH qua các năm nghiên cứu
43
Hình 14
Sự biến thiên nồng độ DO qua các năm nghiên cứu
43
Hình 15
Sự biến thiên độ đục qua các năm nghiên cứu
44
Hình 16
Sự biến thiên độ dẫn qua các năm nghiên cứu
45
Hình 17

STT
Kí hiệu
Diễn giải
1
ĐVN
Động vật nổi
2
ĐNC
Điểm nghiên cứu
3
ĐVKXS
Động vật không xƣơng sống
4
QCVN
Quy chuẩn Việt Nam
5
TVN
Thực vật nổi
6
STT
Số thứ tự
7
TP
Thành phố

quý hiếm, các hệ sinh thái đặc trƣng bao gồm các nguồn sinh vật với mức đa dạng
sinh học cao.
Sông Đà có một vai trò rất lớn trong đời sống của ngƣời dân Tây Bắc. Dòng
sông mang đến cho ngƣời dân ở đây cuộc sống ấm no đầy đủ hơn. Bên cạnh sự
phát triển của nền kinh tế thì việc bảo vệ nguồn nƣớc của dòng sông cũng nhƣ sự
đa dạng sinh học trên dòng sông cũng là vấn đề rất cần đƣợc quan tâm. Chính vì
những điều đó mà đề tài “Phân tích, đánh giá hiện trạng môi trường nước sông
Đà đoạn chảy qua địa phận tỉnh Hòa Bình và đề xuất một số giải pháp bảo vệ
môi trường" là một sự cần thiết cho việc quản lý chất lƣợng nƣớc của lòng hồ
sông Đà. Mục tiêu của đề tài bao gồm: 5
- Tìm hiểu chất lƣợng nƣớc sông Đà khu vực chảy qua địa phận Hòa Bình dựa
vào các thông số thủy lý, hóa học
- Sơ bộ điều tra thành phần loài Động vật nổi, Thực vật nổi
- Đánh giá chất lƣợng nƣớc tại các điểm nghiên cứu bằng các thông số thủy lý
hóa và các chỉ số sinh học.
- Đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi trƣờng nƣớc sông Đà.
đều
cao hơn gấp 1.5 – 2 lần [20]. Sông Thƣơng tại Bắc Giang có hàm lƣợng COD cao
hơn tiêu chuẩn cho phép với nguồn nƣớc loại A tới 10mg/l, hàm lƣợng NO
2
cao tới
0.7mg/l. Tại Hải Phòng tổng lƣợng nƣớc thải sinh hoạt và công nghiệp của thành
phố khoảng 65000 – 75000 m
3
/ ngày đêm. Nƣớc thải từ các cống xả rất bẩn, hàm
lƣợng BOD từ 60 – 390mg /l, COD từ 80 – 500mg/l Toàn bộ hệ thống nƣớc thải
này đổ thẳng ra sông Cấm và sông Tam Bạc. Hàng năm trên đồng ruộng Hải Phòng
ngƣời dân đã đổ ra lƣợng thuốc trừ sâu rất lớn với lƣợng thuốc hóa học rất nhiều
gây nên sự ô nhiếm nguồn nƣớc mặt [5].
Cũng ở miền Bắc, môi trƣờng nƣớc mặt tại lƣu vực sông Nhuệ - Đáy đang chịu
ảnh hƣởng mạnh của nƣớc thải sinh hoạt và các hoạt động công nghiệp, nông
nghiệp, làng nghề và nuôi trồng thủy sản trong khu vực. Chất lƣợng nƣớc của
nhiều đoạn sông đã bị ô nhiễm tới mức báo động, đặc biệt vào mùa khô, giá trị các
thông số BOD
5
, COD, Coliform tại các điểm đo đều vƣợt QCVN08:2008/BTNMT
loại A1 nhiều lần. Hiện mỗi ngày sông Nhuệ - Đáy phải tiếp nhận gần 4 triệu m
3

nƣớc thải, trong đó lƣợng nƣớc thải từ trồng trọt, chăn nuôi chiếm 62%. Trong tổng
các nguồn thải đang gây ô nhiễm cho lƣu vực sông này, Thành phố Hà Nội chiếm
tới 48,8%, tiếp đó là các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và thấp nhất là Hòa
Bình chiếm 4,4%. Riêng 45500 cơ sở sản xuất kinh doanh, 19 khu công nghiệp, 7

hàm lƣợng các thông số ô nhiễm trên các nhánh sông phụ lƣu thuộc lƣu vực sông
Nhuệ - Đáy vẫn đáp ứng yêu cầu QCVN08:2008/BTNMT loại A2 và B1 [14].
Sông Cầu đoạn qua tỉnh Bắc Kạn có dấu hiệu ô nhiễm, các thông số xấp xỉ
ngƣỡng QCVN08:2008/BTNMT đối với nguồn loại A1. Khi chảy vào thành phố
Thái Nguyên, mức độ ô nhiễm gia tăng đáng kể do chịu tác động của các hoạt động
sản xuất công nghiệp và khai thác khoáng sản. Tại các điểm đo trên đoạn sông 8
chảy qua tỉnh Thái Nguyên, giá trị quan trắc các thông số ô nhiễm đều vƣợt
QCVN08:2008/BTNMT loại A1. Vùng hạ lƣu sông Cầu (đoạn chảy qua Bắc Giang
và Bắc Ninh), mặc dù chịu ảnh hƣởng do tiếp nhận nƣớc của sông Cà Lồ tại Bắc
Giang và sông Ngũ Khê tại Bắc Ninh nhƣng nhìn chung, mức ô nhiễm vẫn ở dƣới
ngƣỡng cho phép của QCVN08:2008/BTNMT loại A2 [17].
Sông Ngũ Huyện Khê là một trong những điển hình ô nhiễm nghiêm trọng của
lƣu vực sông Cầu do hoạt động của các cơ sở sản xuất và đặc biệt là các làng nghề
trải suốt từ Đông Anh, Hà Nội cho đến cống Vạn An của Bắc Ninh. Nƣớc sông bị
ô nhiễm hữu cơ, hàm lƣợng các chất dinh dƣỡng tại các vị trí đều cao hơn
QCVN08:2008/BTNMT loại A1 nhiều lần, xấp xỉ hoặc vƣợt ngƣỡng B2[14].
1.2 Sơ lƣợc về chế độ thuỷ văn tại vùng hồ sông Đà
Hòa Bình có tài nguyên nƣớc mặt rất dồi dào, tổng lƣợng nƣớc hàng năm của
các con sông suối trong tỉnh khoảng 60 tỷ m
3
. Ngoài ra trong tỉnh cũng có lƣợng hồ
chứa khá lớn, ngoài hồ Hòa Bình còn có khoảng 335 hồ chứa nƣớc khác. Chỉ tính
riêng hồ chứa nƣớc có diện tích nƣớc mặt trung bình từ 5 hecta trở lên thì có 135
hồ phân bố khắp các huyện, thành phố trong tỉnh với diện tích nƣớc mặt lên tới
1294,4 ha là nguồn cung cấp nƣớc dồi dào cho tƣới tiêu trong nông nghiệp, công
nghiệp và phục vụ hoạt động sinh hoạt cho ngƣời dân, cũng nhƣ trong chăn nuôi
thủy sản và là nguồn nƣớc dự trữ cho mùa hè sử dụng cho các vụ đông xuân. Hồ

chiếm 1607 km
2
không tạo thành diện tích lớn, thuộc các huyện Lƣơng
Sơn, Lạc Thủy, thành phố Hòa Bình, Kim Bôi và phía đông huyện Đà Bắc. Phần
có diện tích mật độ lƣới sông từ 2 – 2,5km/km
2
chỉ chiếm 436 km
2
, thuộc các địa
danh phía đông tỉnh Hòa Bình trong đó huyện Kim Bôi có diện tích tƣơng đối lớn.
Phần diện tích từ 12,5 – 6km/km
2
chỉ chiếm 213km
2
chỉ có ở 2 địa danh chủ yếu
thuộc Tây Nam huyện Kim Bôi và phía Nam huyện Lạc Thủy. Nhìn chung thì lƣới
sông của tỉnh Hòa Bình thuộc cấp 2 [10].
Chế độ thủy văn của các sông tỉnh Hòa Bình có 2 đặc điểm chính là các con
sông đều nhỏ chỉ có hồ Hòa Bình và sông Đà là lớn nhất và có ý nghĩa vô cùng lớn
đối với thủy điện quốc gia và tỉnh Hòa Bình. Dòng chảy năm của sông Đà rất dồi
dào: tổng lƣợng nƣớc bình quân nhiều năm của sông Đà khoảng 54,2 km
3
ứng với
lƣu lƣợng bình quân nhiều năm là 1720m
3
/s. Do lƣợng mƣa của lƣu vực sông Bƣởi
tƣơng đối nhiều, lƣợng dòng chảy của sông Bƣởi tƣơng đối dồi dào, tổng lƣợng
nƣớc nhiều năm là 1,65 tỷ m
3
, ứng với lƣu lƣợng bình quân là 52,5 m


10
Phân phối trong năm của dòng chảy năm ở Hòa Bình, mùa lũ kéo dài 5 tháng từ
tháng 6 đến tháng 10 và diễn ra tƣơng đối đồng đều trong phạm vi toàn tỉnh. Mùa
cạn kéo dài 7 tháng từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau. Tuy nhiên trong từng năm cụ
thể, do sự biến động của chế độ mƣa mùa lũ có thể bắt đầu sớm hoặc đến muộn 1
tháng.
Lƣợng dòng chảy trong mùa cạn của các sông ngòi ở Hòa Bình đều thấp, modul
dòng chảy mùa cạn của các sông từ 10 – 14 l/s/km
2
và modul dòng chảy 3 tháng
liên tiếp nhỏ nhất chỉ đạt 5,2 – 8,7 l/s/km
2
. Đặc biệt vào thời gian tháng 3 đến tháng
có dòng chảy nhỏ nhất trong năm, modul dòng chảy chỉ đạt 4,5 – 7 gl/s/km
2

lƣợng dòng chảy tháng này chỉ đạt 1 – 2 % dòng chảy cả năm. Tuy nhiên nó có giá
trị kinh tế rất lớn, vì thời gian mùa cạn cơ bản trùng với thời kì mùa khô ít có mƣa,
độ ẩm thấp, lƣợng hơi nƣớc bốc cao. Nhu cầu nƣớc trong mùa cạn lại rất lớn, vì
vậy tình trạng thiếu nƣớc sẽ rất nghiêm trọng, đặc biệt là đối với sản xuất, nếu
không có nƣớc thì vụ sản xuất lúa và hoa màu sẽ bị thất bại. Cũng do mực nƣớc và
lƣu lƣợng nƣớc trong sông suối thấp, nên giao thông đƣờng sông cũng gặp trở ngại
[36].
Nhìn chung khả năng cung cấp nƣớc của sông ngòi Hòa Bình trong mùa cạn là
kém, song về mùa mƣa lũ, nguồn sinh thủy lại phong phú, đôi khi còn nguy hại đối
sản xuất và đời sống nhƣ lũ, ngập lụt. Vì vậy cần có biện pháp bảo vệ tầng phủ
vùng thƣợng nguồn cùng với việc xây dựng các hồ chứa nƣớc để tích nƣớc trong
mùa mƣa, làm tăng khả năng tiềm tàng của nguồn nƣớc trong mùa cạn.
1.3 Nguyên nhân gây ô nhiễm nƣớc.

nƣớc thải sinh hoạt chứa vi khuẩn, trong đó có vi sinh vật gây bệnh đƣờng ruột vốn
dễ dàng lây truyền qua nƣớc. Một số chất độc tế bào hay dƣ lƣợng thuốc kháng
sinh cũng có khả năng có trong nƣớc thải bệnh viện. Nƣớc thải y tế còn có thể chứa
kim loại nặng, hóa chất độc, đồng vị phóng xạ. Kim loại nặng có trong nƣớc thải y
tế phần lớn là thủy ngân từ nhiệt kế và bạc từ quá trình tráng rửa phim X quang.
Mỗi bệnh viện có thể thải ra khoảng 0,4 – 0,95 m
3
nƣớc thải trên một giƣờng bệnh
trong ngày. Thống kê của Bộ Y tế mới đây cho thấy 67,7% số bệnh viện tuyến
trung ƣơng, 56,1% bệnh viện tuyến tỉnh và 44,4% bệnh viện tuyến huyện thực hiện
thu gom và xử lý nƣớc thải theo quy định. Nhƣ vậy vẫn còn rất nhiều cơ sở y tế xả
chất thải lỏng ra môi trƣờng [37].
Nƣớc dùng trong sinh hoạt của dân cƣ các đô thị ngày càng tăng nhanh do sự gia
tăng dân số và sự phát triển các dịch vụ đô thị. Hiện nay, hầu hết các đô thị đều
chƣa có hệ thống xử lý nƣớc thải sinh hoạt. Quá trình đô thị hoá tại Việt Nam diễn
ra rất nhanh. Những đô thị lớn tại Việt Nam nhƣ Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng bị ô nhiễm nƣớc rất nặng nề. Đô thị ngày càng phình ra tại Việt
Nam, nhƣng cơ sở hạ tầng lại phát triển không cân xứng, đặc biệt là hệ thống xử lý 12
nƣớc thải sinh hoạt tại Việt Nam vô cùng thô sơ. Có thể nói rằng, ngƣời Việt Nam
đang làm ô nhiễm nguồn nƣớc uống chính bằng nƣớc sinh hoạt thải ra hàng ngày
[37].
Theo Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trƣờng Việt Nam (VACNE), nƣớc thải sinh
hoạt chiếm khoảng 80% tổng số nƣớc thải ở các thành phố, là một nguyên nhân
chính gây nên tình trạng ô nhiễm nƣớc và vấn đề này có xu hƣớng càng ngày càng
xấu đi. Ƣớc tính, hiện chỉ có khoảng 6% lƣợng nƣớc thải đô thị đƣợc xử lý.
Một điều đang diễn ra là quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá khiến luồng
di cƣ đổ về đô thị. Song việc thu gom, xử lý rác thải và nƣớc thải sinh hoạt lại

tiện tay vứt bỏ các vỏ chai, lọ thuốc bảo vệ thực vật ngay tại chân ruộng hoặc bờ
mƣơng).
Tình trạng vứt rác bừa bãi của một bộ phận ngƣời dân nông thôn không chỉ làm
ảnh hƣởng đến cảnh quan nông thôn mà còn tác động xấu đến môi trƣờng sống,
hủy hoại môi trƣờng trong lành của những làng quê. Các dòng nƣớc sông, ngòi,
kênh, mƣơng bị ô nhiễm, nƣớc chuyển sang màu vàng hoặc đen xì, tạo điều kiện
cho các mầm bệnh phát triển, làm cho nguồn nƣớc ngọt dần dần bị khan hiếm.
Đến nay, số dân nông thôn đƣợc sử dụng nƣớc sạch từ công trình cấp nƣớc tập
trung chiếm tỷ lệ khá cao, tuy vậy, một bộ phận ngƣời dân vẫn phải dùng nƣớc
giếng đào, nƣớc ao hồ, sông ngòi hoặc nƣớc mƣa để sinh hoạt. Chính vì vậy, nguồn
nƣớc ngọt bị ô nhiễm sẽ ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sức khỏe của ngƣời dân nông
thôn vì đây là nơi ủ các mầm bệnh gây ra những bệnh về da, bệnh đƣờng ruột, bệnh
đau mắt, bệnh phụ khoa, đặc biệt ở những nơi có tồn dƣ hàm lƣợng thuốc bảo vệ
thực vật cao có thể gây ra bệnh ung thƣ [16].
Ở các đô thị đã có một số trạm xử lý nƣớc thải sinh hoạt tập trung thì tỷ lệ
nƣớc đƣợc xử lý còn rất thấp so với yêu cầu. Nƣớc thải sinh hoạt trong khu dân cƣ,
các khu du lịch và nƣớc thải của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp chƣa qua xử lý là
nguyên nhân chính làm ô nhiễm hệ thống các thủy vực nội đô và ven đô ở nƣớc ta.
Ngoài ra, nƣớc thải từ hoạt động của các làng nghề đang ở mức báo động đặc
biệt. Theo kết quả điều tra gần đây có tới hơn 90% lƣợng nƣớc thải từ các cơ sở
sản xuất tại làng nghề chƣa qua xử lý đƣợc thải chung vào đƣờng cống của làng
chảy thẳng ra kênh, mƣơng khiến nƣớc ao hồ đen quánh, bốc mùi ô nhiễm, ảnh 14
hƣởng nghiêm trọng đến môi trƣờng và sức khỏe của những ngƣời dân sinh sống
xung quanh khu vực làng nghề [25].
+ Nƣớc thải công nghiệp
Là nƣớc thải từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các nhà
máy xí nghiệp Tùy theo đặc điểm từng ngành sản xuất mà chúng có đặc điểm

đặc biệt là hai châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long.
+ Hoạt động giao thông vận tải và sự cố tràn dầu:
Việc gia tăng số lƣợng các tàu phục vụ cho hoạt động giao thông vận tải, mục
đích vận chuyển hàng hóa, đánh bắt khai thác thủy sản cũng là một trong những
nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trƣờng nƣớc. Các tàu thuyền này thải trực tiếp các
chất thải ra môi trƣờng mà không qua bất kì một quá trình xử lí nào. Hơn nữa việc
các tàu thuyền thải dầu thải ra môi trƣờng nƣớc làm cho lƣợng dầu trong nƣớc tăng
lên rất lớn gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nƣớc, ảnh hƣởng trực tiếp đến sinh vật
trong nƣớc [15].
+ Từ sản xuất ngƣ nghiệp:
Các chất thải từ nuôi trồng thủy sản là nguồn thức ăn dƣ thừa bị phân hủy trong
môi trƣờng nƣớc tạo ra các hợp chất hữu cơ có hại cho môi trƣờng nƣớc. Ngoài ra
còn có các chất nhƣ kháng sinh, trong nuôi trồng thủy sản cũng đƣợc thải ra ngoài
môi trƣờng gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến môi trƣờng nƣớc.
+ Bên cạnh các nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nƣớc thì các nguyên
nhân do tự nhiên nhƣ núi lửa, bão lụt cũng gây tác động xấu đến môi trƣờng
nƣớc. Hàng năm hiện tƣợng cháy rừng cũng gây ra hiện tƣợng ô nhiễm do khói và
do bụi. Ngoài ra quá trình thối rữa của xác động, thực vật đã chết sinh ra ô nhiễm
không chỉ cho nguồn nƣớc mà còn gây ra ô nhiễm cho không khí của các khu vực.
1.4 Các phƣơng pháp đánh giá chất lƣợng nƣớc
1.4.1 Phương pháp thủy lý hóa học
Phƣơng pháp này cho phép ta đánh giá các tác động của nguồn ô nhiễm đối với
nguồn nƣớc một cách nhất thời hay độc lập, dựa trên cơ sở sử dụng các chỉ tiêu
thủy lý hóa để đánh giá nhƣ: 16
- Đánh giá đô
̣
ô nhiê

trình quang hợp của một số sinh vật trong nƣớc.
- Nồng độ muối chỉ tổng nồng độ của các ion hòa tan trong nƣớc trong đó đặc
biệt lƣu ý đến nồng độ của 7 ion quan trọng nhất chiếm tới 95% tổng số các ion
hòa tan trong nƣớc bao gồm: Na
+
, K
+
, Ca
2+
, Mn
2+
, Cl
-
, SO
4
2-
, và HCO
3
-
[20].
- Độ dẫn của nƣớc liên quan đến sự có mặt của các ion trong nƣớc. Các ion này
thƣờng là muối của kim loại nhƣ NaCl, KCl, SO
4
2-
, NO
3
-
, PO
4
3-

dạng lơ lửng hay hoà tan. COD cao, thể hiện nồng độ chất hữu cơ trong nƣớc cao,
tạo điều kiện dễ dàng cho các loại vi sinh vật phát triển.
- Nhu cầu oxy sinh hóa (BOD: Biochemical oxygen demand) là lƣợng oxy cần
thiết cho vi khuẩn để phân hủy chất hữu cơ có khả năng oxi hóa sinh hóa dƣới điều
kiện hiếu khí. Trong quá trình phân hủy này, chất hữu cơ đƣợc dùng làm thức ăn
cho vi khuẩn và giải phóng năng lƣợng. Nhƣ vậy, BOD là đại lƣợng đánh giá chất
hữu cơ ô nhiễm trong nƣớc thải đƣợc xác định thông qua khối lƣợng oxi cần thiết
mà để phân hủy hoàn toàn trong điều kiện hiếu khí. Oxy sử dụng trong quá trình
này là oxy hòa tan [20].
- Nitơ (N) là chỉ tiêu xác định hàm lƣợng các dạng nitơ tồn tại trong nƣớc. Gồm
các chỉ tiêu cụ thể là: N-tổng, N-amonium (NH
4
+
), N-nitrat (NO
3
-
), N-nitrit (NO
2
-
).
Các dạng hợp chất nitơ là chất chỉ thị để nhận biết mức độ nhiễm bẩn của nƣớc.
Đối với nguồn nƣớc mặt, sự phát triển của tảo liên quan đến chất dinh dƣỡng đƣợc
đƣa vào nguồn nƣớc. Vì vậy, các dạng của nitơ phải đƣợc xem xét. Ngoài ra việc
oxi hóa các dạng khử của nitơ đƣợc oxi hóa trong nƣớc tự nhiên có ảnh hƣởng đến 18
lƣợng oxi hòa tan. Từ những lý do đó, các số liệu về nitơ là phần thông tin cần thiết
cho các chƣơng trình giám sát mức độ ô nhiễm của nguồn nƣớc [16].
- Sulfat thƣờng hiện diện trong nƣớc có nguồn gốc khoáng chất hoặc nguồn gốc

Những sinh vật chỉ thị cho môi trƣờng thƣờng có những tính chất sau:
- Vật chỉ thị dễ dàng định loại (readily indentifiel)
- Dễ thu mẫu: không cần nhiều thao tác hoặc thiết bị tốn kém và có thể định
lƣợng
- Có phân bố rộng, tối ƣu là phân bố toàn cầu
- Có nhiều dẫn liệu sinh thái học phong phú, đây là sự trợ giúp đáng kể trong kết
quả điều tra phân tích và phát hiện ô nhiễm.
- Có giá trị kinh thế hoặc tầm quan trọng nhƣ là tài nguyên hoặc vật gây hại.
- Có khả năng tích trữ chất ô nhiễm, đặc biệt là phản ánh mức độ môi trƣờng vì
sự phân bố của chúng liên quan đến mức độ ô nhiễm môi trƣờng.
- Dễ dàng nuôi cấy trong phòng thí nghiệm cũng nhƣ đƣợc nghiên cứu thí
nghiệm về tính thích ứng của chúng đối với chất ô nhiễm và môi trƣờng quan sát.
- Có tính biến dị thấp, về mặt di truyền cũng nhƣ vai trò của chúng trong quần
xã sinh vật.
Thông thƣờng ngƣời ta sử dụng một số loại sinh vật sau làm sinh vật chỉ thị:
Vi khuẩn (Bacteria): Một số vi khuẩn đƣợc nghiên cứu vì sự liên quan của
chúng tới vấn đề sức khỏe cộng đồng và sự lan truyền qua đƣờng nƣớc.
Động vật nguyên sinh (Protozoa): Giống nhƣ vi khuẩn, động vật nguyên sinh
tƣơng đối dễ thu mẫu và sự thích nghi của chúng đối với môi trƣờng giàu chất hữu
cơ.
Tảo (Algae): Tảo đƣợc coi là sinh vật chỉ thị quan trọng vì chúng có quan hệ với
nghiên cứu về sự phú dƣỡng. Sự chịu đựng đối với ô nhiễm vật chất hữu cơ của các
loài này đƣợc nghiên cứu rất nhiều nhƣng chúng không phù hợp làm sinh vật chỉ
thị ở môi trƣờng ô nhiễm do thuốc trừ sâu hoặc môi trƣờng bị ô nhiễm kim loại
nặng
Động vật không xƣơng sống cỡ lớn (Macroinvertebrates) là nhóm sinh vật thủy
sinh phổ biến nhất, sự phân bố của chúng thƣờng ổn định và đặc biệt chúng rất dễ 20

4. Phƣơng pháp đơn giản, nhanh chóng và dễ sử dụng hơn so với đo các chỉ tiêu
thủy lý hóa.
5. Sử dụng sinh vật chỉ thị có thể đánh giá đƣợc khả năng phân hủy vật chất
đồng thời phản ánh mức độ đa dạng sinh học tại khu vực nghiên cứu.
Để đánh giá chất lƣợng nƣớc một cách đầy đủ và hoàn thiện, trong những năm
gần đây ngƣời ta thƣờng kết hợp sử dụng các sinh vật chỉ thị với việc đánh giá qua
các chỉ tiêu thủy lý hóa của môi trƣờng nƣớc. Cách này sẽ kết hợp đƣợc cả ƣu điểm
của cả hai phƣơng pháp đánh giá. Sử dụng các sinh vật chỉ thị có thể đánh giá chất
lƣợng nƣớc qua một thời gian dài, trong khi đó các chỉ tiêu thủy lí hóa chỉ đánh giá
trong một thời gian tức thời nào đó, nhƣng lại có thể xác định rõ đƣợc chất gây ô
nhiễm là gì, với nồng độ bao nhiêu. Dựa trên các thủy số thủy lí hóa và thành phần
sinh vật thích ứng trong đó đặc biệt là các sinh vật chỉ thị, Kolkwitz Marsson thiết
lập sự phân loại nƣớc bị ô nhiếm theo các mức độ sau [31]:
- Nước rất bẩn ( Poli saprobe): Nƣớc chứa các chất ở giai đoạn phân hủy đầu
tiên. Không có TVN, hàm lƣợng oxy hòa tan bằng không, nhiều vi khuẩn và nấm
hoại sinh. Các sinh vật chỉ thị chính là: Tảo, Vi khuẩn, Động vật không xƣơng
sống.
- Nước bẩn ( Meso saprobe): đƣợc chia làm 2 mức:
+ Mức bẩn ( α Meso saprobe): Hàm lƣợng oxy thấp, số lƣợng Vi khuẩn đạt đến
hàng ngàn tế bào/ ml. Các sinh vật chỉ thị chính là tảo Lam, tảo Silic nhƣ Euglena
viridis,
+ Mức bẩn vừa ( β Meso saprobe): các chất phần lớn ở dạng khoáng hóa, xuất
hiện NO
3
, NO
2
, hàm lƣợng oxy hòa tan cao hơn. Các nhóm chỉ thị nhƣ Melosira,
Spirogyra, Heliozoa.
- Nước bẩn ít ( Oligo saprobe): Chứa rất ít chất hữu cơ. Hàm lƣợng oxy cao. Vi
khuẩn dao động từ 1000 – 10000 tế bào/ lít, thủy sinh vật đa dạng và phong phú


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status