Luận văn thạc sĩ Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du - Pdf 26

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI





NGUYỄN THỊ NỤ
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ
TNCN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN DU TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số:
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VIẾT ĐĂNG
HÀ NỘI, 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính bản thân tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề
được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Nụ
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này tôi đã nhận được
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ, góp ý của nhiều tập thể và cá nhân trong và ngoài
trường.
Trước hết cho tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Viết Đăng,
người hướng dẫn Khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi về kiến thức cũng như

Mã số thuế
TNCN
Thu nhập cá nhân
TH
Thực hiện
SL
Số lượng
UBND
Ủy ban nhân dân
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế thu nhập nói chung và thuế TNCN nói riêng đã được áp dụng từ
lâu trên thế giới và có lịch sử hàng trăm năm. Thuế TNCN được áp dụng lần
đầu tiên ở Anh năm 1799 dưới hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang
trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức ban hành vào năm
1842. Sau đó, thuế TNCN được nhanh chóng lan truyền sang các nước công
nghiệp khác như: Nhật (năm 1887), Mỹ (năm 1913), Pháp (năm 1914) Các
nước Châu Á như Thái Lan bắt đầu áp dụng vào năm 1939, ở Phi-líp-pin năm
1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đô-nê-sia năm 1949, Trung Quốc năm 1984.
Đến nay, đã có khoảng 180 nước áp dụng thuế TNCN và thuế TNCN đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của nhiều nước.
Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế TNCN là một
trong những sắc thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn
thu ngân sách, thực hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.
Ở Việt Nam, thuế TNCN lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 dưới
hình thức Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế
TNCN đã được Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá
XII thông qua tại kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 27/11/2007 có hiệu lực thi hành
từ ngày 1/1/2009 thay cho Pháp lệnh thuế đối với người có thu nhập cao. Sau

pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Để hoàn thành mục tiêu chung đề tài có các mục tiêu cụ thể như sau:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thu thuế TNCN
Phân tích thực trạng của công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế
TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
Đối tượng điều tra, khảo sát để thu thập thông tin là: Cơ quan quản lý
thu thuế các cấp (từ huyện, xã) và đối tượng chịu thuế TNCN, đối tượng nộp
thuế.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu, đánh giá công tác
quản lý thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Về thời gian: Các số liệu thống kê được phân tích từ giai đoạn 2010-
2012
PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
2.1. Cơ sở lý luận về công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân
2.1.1. Tổng quan về thuế TNCN
2.1.1.1 Khái niệm về thuế TNCN
Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trên thu nhập nhận được của
các cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) hoặc
theo từng lần phát sinh
Thuế TNCN là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động

quốc gia. Phải kết hợp hữu hiệu nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại
những hành vi trên, một trong số các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến
vai trò của thuế TNCN. Tuy nhiên, vì công tác quản lý thuế TNCN còn nhiều
hạn chế nên những vai trò này vẫn chưa thực sự được phát huy ở những nước
chậm phát triển.
Đặc điểm của thuế TNCN
Một là, thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của
NNT, người nộp thuế đồng nhất với người chịu thuế nên khó có thể chuyển
gánh nặng thuế sang cho người khác.
Hai là, thuế TNCN là loại thuế có độ nhạy cảm cao vì nó liên quan trực
tiếp đến lợi ích cụ thể của người nộp thuế và liên quan đến hầu hết mọi cá
nhân trong xã hội. Đặc điểm này xuất phát từ tính trực thu của thuế TNCN.
Ba là, thuế TNCN là loại thuế luôn gắn liền với chính sách xã hội của
mỗi quốc gia mặc dù các quốc gia hiện nay vẫn luôn hướng tới một hệ thống
chính sách thuế mang tính trung lập. Khi tính Thuế TNCN có xem xét đến
hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế bằng việc quy định một số khoản được
khấu trừ có tính chất xã hội trước khi tính thuế.
Bốn là, thuế TNCN thường được tính theo biểu thuế luỹ tiến từng phần
do thuế TNCN được đánh theo nguyên tắc “khả năng nộp thuế” và cũng xuất
phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều tiết mạnh người có thu nhập
cao, động viên sự đóng góp của những người có thu nhập thấp, thu nhập trung
bình trong xã hội.
Năm là, thuế TNCN không bóp méo giá cả hàng hoá, dịch vụ. Thuế
TNCN không cấu thành trong giá bán (giá thanh toán) hàng hoá, dịch vụ nên
nó không tạo ra sự sai lệch giá cả hàng hoá, dịch vụ.
2.1.1.3. Tổng quan về quản lý thuế TNCN
* Khái niệm quản lý thuế TNCN
Quản lý thuế TNCN là sự tác động có chủ đích của cơ quan chức năng
trong bộ máy nhà nước đối với quá trình tính và thu thuế TNCN để thay đổi
quá trình này nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách và đạt được các mục tiêu nhà

nộp thuế, bảo đảm tăng thu vào tổng số thu NSNN. Qua đó, đáp ứng được mọi
nhu cầu chi tiêu thường xuyên, vừa góp phần tích luỹ cho xây dựng cơ sở hạ
tầng và trả nợ, góp phần giảm bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát.
Ví dụ: Tỷ trọng thu thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của nhiều quốc
gia đã phản ánh tiến trình đó, tại các nước khối ASEAN: 5-10%, các nước phát
triển có tỷ trọng 15-16% có nước đạt tới tỷ trọng 30- 40% như Anh, Mỹ. Việt
Nam, tỷ trọng thu về thuế TNCN cũng mới chỉ đạt khoảng 5% tổng thu ngân sách.
Quản lý thuế của Nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện thuế TNCN được
nghiêm minh: Do đặc điểm của Thuế TNCN là một loại thuế trực thu điều tiết
vào thu nhập của cá nhân, do người chịu thuế trực tiếp nộp thuế vào NSNN,
nên nó rất có tác dụng trong việc điều hoà thu nhập, góp phần giảm bớt sự
chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các những người dân cư. Tuy nhiên,
thuế TNCN lại có hạn chế lớn là dễ gây phản ứng từ phía NNT hoặc dễ xảy ra
tình trạng trốn, lậu thuế nếu quy định mức thuế suất cao. Hơn nữa, thuế
TNCN có diện thu thuế rộng và phân tán, việc theo dõi, tính toán và thu thuế
rất phức tạp. Vì vậy, nếu không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu quả thì dễ
dẫn đến hạn chế tác dụng của loại thuế này trong việc tập trung số thu đầy đủ,
kịp thời về cho NSNN, do đó phải có quản lý thuế của Nhà nước để đảm bảo
việc thu thuế được nghiêm chỉnh, đúng pháp luật.
Quản lý thuế của Nhà nước đối với thuế TNCN để đảm bảo mục tiêu
công bằng xã hội: Thuế TNCN động viên trực tiếp vào thu nhập của cá nhân,
thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn cứ trên các
nguyên tắc "lợi ích", "công bằng" và "khả năng nộp thuế". Theo nguyên tắc
lợi ích thì mọi người trong xã hội đều được hưởng những thành quả phát triển
của đất nước về luật pháp thể chế, cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật
tự đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho
xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc "công bằng" và “khả năng nộp
thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn,
người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít
hơn, mỗi cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh

* Tính nghiêm minh của luật pháp
Cơ quan quản lý làm việc có hiệu quả, luật pháp được thực hiện
nghiêm minh sẽ đảm bảo việc vi phạm giảm đi. Các ĐTNT cũng như cơ quan
thuế cũng sẽ thực hiện nghiêm túc hơn các quy định trong luật thuế bởi họ
biết rằng khi vi phạm họ sẽ không tránh khỏi những hình phạt.Như vậy, công
tác quản lý thuế TNCN sẽ đạt hiệu quả hơn.
* Tình hình kinh tế và mức sống của người dân
Hiệu quả của công tác quản lý thuế TNCN phụ thuộc không nhỏ vào
mức độ phát triển kinh tế và đời sống của dân cư. Cùng một đơn vị thu thuế
trên một khu vực, số đối tượng nộp thuế TNCN nhiều, số thuế thu được nhiều
sẽ giảm bớt chi phí trên một đồng thuế thu được và ngược lại có ít đối tượng
nộp thuế và số thuế thu được ít thì chi phí cho một đồng thuế thu được sẽ cao.
Sự phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ
cho công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thuế TNCN nói riêng. Khi
cơ sở hạ tầng tốt thì khả năng quản lý thuế cũng sẽ được đơn giản và hiệu quả.
* Ý thức chấp hành luật thuế của đối tượng nộp thuế
Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng tỉ lệ
thuận với ý thức và trách nhiệm nộp thuế. Khi người dân có ý thức chấp hành
luật thuế tốt, họ sẽ tự giác trong kê khai, nộp thuế; Hành vi trốn thuế sẽ ít xảy ra.
Từ đó, công tác quản lý thu thuế sẽ gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả tốt hơn.
Nếu người dân có ý thức chất hành luật thuế kém sẽ làm giảm hiệu quả của công
tác quản lý thu thuế. Thực tế, khi người dân nhận thức được quyền lợi họ sẽ
được hưởng những hàng hóa, dịch vụ công cộng mà nhà nước cung cấp họ sẽ
thấy rõ trách nhiệm của mình đối với nhà nước là đóng thuế cho Nhà nước.
Tóm lại: ý thức chấp hành pháp luật thuế của ĐTNT cũng ảnh hưởng
một phần tới công tác quản lý thuế TNCN. Ý thức chấp hành luật của người
dân có thể nâng cao dần qua quá trình tuyên truyền, giáo dục.
2.1.2. Nội dung công tác quản lý thu thuế TNCN
Công tác quản lý là một phần quan trọng của quản lý tài chính nhà
nước, công tác này không chỉ được nhìn nhận ở tầm vĩ mô, mà còn cả ở tầm

nhóm ĐTNT.
Để đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý thu thuế, đảm bảo nguồn thu
kịp thời cho NSNN và đảm bảo công bằng, bình đẳng trong xã hội mỗi nước
sẽ lựa chọn một mô hình cụ thể theo điều kiện kinh tế - xã hội. Có những
nước lựa chọn kiểu mô hình pha trộn giữa các kiểu trên.
2.1.2.2. Quản lý đối tượng nộp thuế
Đây là khâu đặc biệt quan trọng đối với công tác quản lý thuế TNCN.
Quản lý tốt ĐTNT sẽ đảm bảo phần lớn hiệu quả của công tác quản lý thuế
TNCN bởi chúng ta chưa biết chính xác ai là những đối tượng phải nộp thuế
trước khi kê khai thu nhập của họ. Do đó, cần giám sát thu nhập của tất cả các
đối tượng lao động, từ đó chúng ta có thể xác định được đối tượng nào phải
nộp thuế và nộp thuế bao nhiêu.
Cơ quan thuế phải tiến hành đăng ký ĐTNT.Phương thức đăng ký
ĐTNT thường được áp dụng là phương thức thủ công và quản lý bằng máy vi
tính. Tuy nhiên, phương thức quản lý bằng mạng vi tính thích hợp với công
tác quản lý thuế TNCN vì đối tượng nộp thuế TNCN ở đây nhiều và không
tập trung. Phương thức này thì cơ quan quản lý thuế cần phải tiến hành cấp
mã số thuế cho các đối tượng nộp thuế và cơ quan chi trả thu nhập thống nhất
trong phạm vi cả nước. Mỗi ĐTNT được gắn với một mã số thuế duy
nhất.Mọi thông tin cần thiết về ĐTNT được lưu trữ vào cơ sở dữ liệu với một
file riêng mà tên file là mã số của ĐTNT. Khi cần kiểm tra thông tin ĐTNT,
cơ quan quản lý thuế chỉ cần mở file theo mã số của đối tượng đó, nhờ đó mà
tránh được tình trạng bỏ sót các ĐTNT đồng thời cũng đảm bảo sự nhanh gọn
cho cơ quan thuế trong công tác quản lý thu thuế.
2.1.2.3. Quản lý kê khai nộp thuế
Có hai hình thức kê khai, đăng ký, nộp thuế TNCN:
Thông qua cơ quan ủy nhiệm thu hay cơ quan chi trả thu nhập tính thuế
cho các ĐTNT có thu nhập do đơn vị mình chi trả. Sau khi tính thuế và khấu
trừ thuế của ĐTNT, cơ quan chi trả thu nhập sẽ tiến hành khấu trừ phần thuế
phải nộp ra khỏi thu nhập trước thuế của ĐTNT để đem nộp NSNN. Cơ quan

định kỳ, không phụ thuộc vào việc có xảy ra vụ việc hay không trong các
ĐTNT và cơ quan quản lý thuế.
Thanh tra, kiểm tra đột xuất là hình thức thanh tra, kiểm tra mang tính
bất thường và đối tượng tranh tra, kiểm tra không được biết.Hình thức này
được tiến hành khi có những vụ việc xảy ra từ phía các ĐTNT hoặc trong các
cơ quan thuế để có biện pháp xử lý.
Các hình thức thanh tra, kiểm tra xét theo phạm vi và nội dung gồm:
Thanh tra, kiểm tra toàn diện: Được tiến hành với tất cả các nội dung
thanh tra, kiểm tra, hoặc với tất cả đối tượng thanh tra, kiểm tra. Hình thức này
thường được áp dụng để phục vụ cho những nghiên cứu cải tiến lớn về hệ thống
thuế.
Thanh tra, kiểm tra có trọng điểm: Được tiến hành chỉ với một số nội
dung, một số đối tượng. Người ta thường chọn ra các đối tượng điển hình và
tổ chức thanh tra, kiểm tra từ đó rút ra kết luận chung cho toàn hệ thống.
Trên thực tế, người ta cũng có thể kết hợp cả hai hình thức này trong
trường hợp cần thiết.
2.1.2.6 Thu nợ và cưỡng chế nợ thuế.
Công tác thu nợ và cưỡng chế nợ thuế thực hiện nhiệm vụ thu tiền nợ
thuế, tiền phạt đối với người nộp thuế thuộc phạm vi quản lý của mình. Thu
thập thông tin về người nộp thuế còn nợ tiền thuế, đề xuất biện pháp đôn đốc
thu nợ và cưỡng chế nợ thuế
2.1.2.7. Tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế
Ngoài những quy định trong văn bản pháp quy có được hoàn hảo hay
không thì sự thành công trong việc thực hiện các chính sách thuế còn phụ
thuộc rất lớn vào sự hiểu biết sâu sắc và ý thức chấp hành nghiêm túc của cán
bộ thuế cũng như NNT. Để nội dung của chính sách thuế đến với mọi người
dân trong xã hội, cơ quan thuế cần phải tiến hành công tác tuyên truyền, phổ
biến về chính sách thuế. Công tác này cần phải được thực hiện trước hết từ
cán bộ thuế, sau đó tới mọi người dân.
Để thành công trong tuyên truyên, phổ biến thuế TNCN thì các cơ quan

dàng hơn nhiều trong việc xác định cũng như kiểm tra thu nhập của người lao
động. Đồng thời để tạo thuận lợi cho công tác giám sát kiểm tra các ĐTNT thì
cơ quan thuế cần phải tiến hành cấp MST cho các ĐTNT và cơ quan chi trả
thu nhập. Sau khi cấp MST thì cơ quan thuế có thể giám sát các đối tượng qua
MST của họ, nhờ đó mà tránh được tình trạng thiếu sót các ĐTNT đồng thời
cũng đảm bảo sự nhanh gọn cho cơ quan thuế trong công tác quản lý thu thuế.
Công tác quản lý thuế TNCN không chỉ dừng lại ở việc thu thuế đầy
đủ đúng như qui định, nó còn cần phải phát hiện ra những bất cập, thiếu sót
trong qui định về nội dung luật thuế cũng như những qui định trong công tác
quản lý kê khai nộp thuế. Trong quá trình thực hiện quản lý thuế, cơ quan sẽ
dễ dàng tìm ra những sai sót trong quá trình lập chính sách, đồng thời cũng sẽ
dễ tìm ra những cách thức phương pháp quản lý thuế tốt nhất, thuận tiện nhất,
đơn giản nhất và tất nhiên đảm bảo được yêu cầu thu đủ và kịp thời số thu vào
NSNN. Từ đó cơ quan thuế có thể kiến nghị lên cấp trên xem xét để có thể
hoàn thiện tốt hơn Luật thuế TNCN và công tác tổ chức quản lý thuế TNCN.
2.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế TNCN
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế TNCN. Mỗi
nhân tố đều có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới công tác này tùy theo
tính chất và trạng thái của nhân tố đó. Nhiệm vụ của các cơ quan chức năng
trong bộ máy nhà nước là phải tìm cách hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực
cũng như phát huy những ảnh hưởng tích cực nhằm hoàn thiện công tác quản
lý thuế TNCN. Các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đó là:
Quan điểm của những người lãnh đạo nhà nước
Để đảm bảo cho pháp luật thuế được thực hiện một cách triệt để, tập trung
đúng, đủ, kịp thời nguồn thu vào NSNN chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi quan
điểm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong công tác quản lý thuế. Quan điểm của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng trước hết tới các chính sách thuế TNCN,
sau là tới quá trình tổ chức thực hiện và các công việc khác thuộc phạm vi quản
lý. Một hệ thống chính sách thuế và cơ cấu thuế suất hợp lý nhưng tổ chức và cơ
chế quản lý thu thuế kém sẽ không đạt được hiệu quả cao. Các cấp lãnh đạo cần

đáp ứng của ngành thuế. Khả năng này lại phụ thuộc rất lớn vào cơ sở vật
chất của ngành thuế. Cũng như vậy, một hệ thống thu thuế được kết nối bằng
mạng nội bộ sẽ là một nhân tố rất hữu ích cho cơ quan thuế trong việc quản lý
thu thuế hiệu quả, chính xác, kịp thời và tiết kiệm chi phí. Việc xây dựng
mạng thông tin nội bộ để quản lý cơ sở dữ liệu sẽ đòi hỏi những chi phí bước
đầu tương đối lớn, nhưng xét về dài hạn thì điều này sẽ tiết kiệm chi phí hơn
rất nhiều so với việc quản lý dữ liệu theo kiểu thủ công.
Trình độ và phẩm chất đạo đức đội ngũ lãnh đạo cán bộ thuế
Trình độ đội ngũ cán bộ thuế có vai trò rất quan trọng trong công tác
quản lý thuế, đặc biệt là thuế TNCN. Nhân tố này tác động vào tất cả các
khâu của công tác quản lý thuế TNCN, từ ban hành chính sách, tổ chức thực
hiện chính sách tới thanh tra, kiểm tra thuế và tổ chức bộ máy quản lý thuế.
Để ban hành chính sách đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu của những
thay đổi kinh tế xã hội và đảm bảo được những mục tiêu của công tác quản lý
thuế TNCN thì đội ngũ cán bộ thuế ở tầm hoạch địch chính sách cần phải có
trình độ cao về vấn đề thực tế cũng như lý thuyết liên quan đến thuế, kinh tế
vĩ mô và quản lý nhà nước… và phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với công
việc. Nếu nhà hoạch định chính sách có trình độ thấp và phẩm chất đạo đức
kém sẽ đưa ra các chính sách chứa đựng nhiều sai sót không chỉ ảnh hưởng
tiêu cực tới công tác quản lý thuế TNCN mà tới cả hệ thống thuế.
Quá trình thực hiện chính sách thuế cũng phụ thuộc rất nhiều vào trình
độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ thuế. Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn tới
hiệu quả hoạt động của công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức thuế cũng
như quản lý thu thuế. Một đội ngũ có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt mới
có đủ khả năng làm một tuyên truyền viên giỏi và nhiệt huyết về thuế, đồng
thời không phạm phải sai lầm trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ cụ thể
về tính thuế, quyết toán thuế,… cũng như không có các hành vi tiêu cực thông
đồng với ĐTNT khai man thuế hay cố tình tính sai tiền thuế phải nộp. Ngược
lại, đội ngũ cán bộ thuế thiếu trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức sẽ
tạo nên những sai sót trong quá trình quản lý, làm giảm hiệu quả công tác

trên thế giới, còn một cá nhân được xác định là không cư trú ở một nước chỉ
phải nộp thuế cho phần thu nhập phát sinh tại nước đó.
Theo tiêu thức “nguồn phát sinh thu nhập”, một cá nhân phải nộp thuế
TNCN ở một nước đối với mọi khoản thu nhập của cá nhân sinh tại nước đó.
Hiện nay, đa số các nước tính thuế TNCN theo tiêu thức “nơi cư trú”.
Sự phân biệt cư trú hay không cư trú của một ĐTNT là rất quan trọng để xác
định ĐTNT đó phải nộp thuế ở mức độ nào. Như vậy, tại mỗi nước khái niệm
cá nhân cư trú lại được định nghĩa khác nhau tùy vào chính sách và trình độ
quản lý của từng nước sao cho phù hợp với tình hình của đất nước mình.
Thông thường quy định cá nhân cư trú là người định cư tại nước đó hoặc
những người đến nước đó thường xuyên nhưng tổng số ngày ở tại nước đó
vượt quá 183 ngày trong một năm (năm dương lịch hay năm tài chính).
Luật thuế TNCN Việt nam quy định, công dân Việt Nam ở trong nước
hoặc đi lao động, công tác ở nước ngoài; các nhân khác định cư không thời hạn
ở Việt Nam, người nước ngoài ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một
năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt
Nam được coi là cư trú ở Việt Nam là ĐTNT thu nhập đối với mọi khoản thu
nhập chịu thuế.
Việc xác định ĐTNT căn cứ vào tiêu thức “nguồn phát sinh thu nhập”
được hầu hết các nước áp dụng để tính thuế các khoản thu nhập phát sinh tại
nước đó của những cá nhân không cư trú. Cách tính thuế theo nguồn phát sinh
thu nhập chỉ thích hợp với những nước có nhiều người nước ngoài đến làm
việc và đầu tư, còn công dân ở nước đó ít đi làm hay đầu tư ở nước ngoài.Có
rất ít nước áp dụng duy nhất tiêu thức này khi xác định ĐTNT.
Ở Việt Nam, Đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú có thu nhập chịu
thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có
thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, thì mọi cá
nhân là người Việt nam hay nước ngoài có thu nhập chịu thuế thuộc diện nộp
thuế TNCN.
2.1.1.2 Thu nhập chịu thuế


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status