Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật - Pdf 28

A. LỜI NÓI ĐẦU:
Gia đình được coi là “tế bào” của xã hội. Trong tiến trình phát triển lịch sử của
đất nước, suốt từ thời kỳ phong kiến, trải qua 2 cuộc đấu tranh chống đế quốc
trường kỳ, Nhà nước vẫn coi trọng về vấn đề hôn nhân và gia đình và đã có nhiều
văn bản pháp luật điều về hôn nhân gia đình nhằm ngày càng hoàn thiện hệ thống
pháp luật để xây dựng đất nước ngày một vững mạnh, xã hội ngày một tốt đẹp.
Trong hơn 50 năm trở lại đây, Nhà nước ta đã xây dựng và cho ra đời ba đạo luật
điều chỉnh quan hệ hôn nhân gia đình vào các năm 1959, 1986, 2000 với quy mô
và nội dung ngày một hoàn chỉnh, cụ thể. Trong đó, có nhiều điểm nổi trội không
chỉ mang tính kế thừa mà còn phát triển rất nhiều, đặc biệt là về việc hủy kết hôn
trái pháp luật. Vì muốn làm rõ thêm về việc hủy kết hôn trái pháp luật được phát
triển như thế nào qua các đạo luật hôn nhân gia đình, chúng em xin được chọn đề
tài: “Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn
trái pháp luật”
Do đây cũng là một đề tài rộng, thời gian chuẩn bị cũng có hạn, chúng em đã
cố gắng trình bày ngắn gọn, cô đọng nhưng trong quá trình làm bài có thể còn
nhiều thiếu sót. Rất mong được sự nhận xét và đóng góp ý kiến của các thầy cô.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG:
I. Cơ sở lý luận
1. Các khái niệm
- Kết hôn: Là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
- Kết hôn trái pháp luật: Là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng
ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp
luật quy định, cụ thể là vi phạm một trong các quy định tại Điều 9, 10 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000.
- Huỷ việc kết hôn trái pháp luật: Là biện pháp xử lý đối với những trường
hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn nhằm bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh
Luật hôn nhân và gia đình. Đây là biện pháp chế tài của Luật hôn nhân và gia đình,
thể hiện thái độ phủ định của Nhà nước đối với các trường hợp kết hôn trái pháp

II. Khái quát các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử về việc huy kết hôn trái pháp luật:
1. Pháp luật thời kỳ phong kiến – Thời kỳ Pháp thuộc:
Trong giai đoạn lịch sử phong kiến, dưới chế độ quân chủ chuyên chế khái
niệm “hôn nhân” được hiểu là sự kết giao giữa hai dòng họ nhằm mục đích sinh
con để nối dõi tông đường và thờ phụng tổ tiên.Vì vậy nguyên tắc cơ bản trong hôn
nhân thời kì này là: hôn nhân không tự do và duy trì chế độ đa thê. Xã hội phong
kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ nghi Nho giáo và hôn nhân cũng
không ngoại lệ. Hôn nhân không phải là chuyện riêng giữa hai bên nam nữ mà là
mối quan hệ xuất phát từ quyền lợi lâu dài của gia đình, dòng họ. Do vậy các cuộc
hôn nhân đều do cha mẹ hoặc các bậc cao niên trong dòng họ sắp đặt. Pháp luật
phong kiến quan niệm rằng chỉ có hôn nhân do cha mẹ sắp xếp thì mới có giá trị.
Bên cạnh những nguyên tắc cơ bản trong hôn nhân được pháp luật phong kiến bảo
hộ, cũng có những quy định cấm kết hôn cũng như việc hủy kết hôn trái pháp luật
trong các bộ luật của phong kiến như bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) hay
luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ). Các quy định cấm kết hôn trong thời kỳ này
tuy có một số điểm mang tính tiến bộ (Ví dụ điều 338 Quốc Triều Hình Luật có
quy định rõ: “Cấm nhà quyền thế cưỡng đoạt, ức hiếp con gái nhà dân làm vợ”.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều quy định hạn chế rất nhiều sự tự do kết hôn của hai bên
nam nữ như: Cấm kết hôn khi có tang cha,mẹ hoặc tang chồng (Điều 317 Quốc
Triều Hình Luật), Cấm Cấm kết hôn khi ông bà,cha mẹ đang bị giam cầm,tù tội
(Điều 318 Quốc Triều Hình Luật).
Tuy nhiên pháp luật phong kiến về hôn nhân gia đình chú trọng hơn tới các
hình phạt hơn so với chế tài hủy kết hôn trái pháp luật. Ví dụ trong Quốc triều hình
luật Điều 309 có qui định “lấy nàng hầu lên làm vợ thì xử tội phạt,vì quá say đắm
nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì bị xử tội biếm”.Còn Điều 96 Hoàng Việt luật lệ chỉ rõ
“Đem thê làm thiếp thì bị phạt 100 trượng.Vợ lớn còn sống mà đem vợ nhỏ làm vợ
lớn thì bị phạt 90 trượng và sủa đổi lại cho đúng.Nếu đã có vợ lớn mà còn cưới vợ
lớn nữa thì bị phạt 90 trượng.Vợ cưới sau phải li dị và trả về tông tộc.”
Đến thời kỳ Pháp thuộc, nước ta dưới sự đô hộ của thực dân Pháp vẫn duy trì

xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân phong kiến lạc hậu. Tuy nhiên, luật hôn nhân
gia đình năm 1959 chỉ đề cập đến các trường hợp bị cấm kết hôn (Chương II) mà
không nói về việc huỷ kết hôn trái pháp luật.
2.3.Giai đoạn 1975 – hiện nay:
Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn thống
nhất. Nhiệm vụ duy nhất được đặt ra cho toàn thể đất nước hiện giờ chính là việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội vững mạnh. Đất nước thống nhất đòi hỏi hệ thống pháp
luật xã hội chủ nghĩa cũng phải thống nhất trên cả hai miền Nam Bắc. Đồng thời,
nhà nước cũng phải sửa đổi hiến pháp nhằm phù hợp với tình hình của đất nước.
Hiến pháp năm 1980 ra đời đã đề ra phương hướng cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa, quy định về chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Đối với chế độ
hôn nhân và gia đình, hiến pháp 1980 cũng trở thành nền tảng cho sự phát triển của
hôn nhân và gia đình Việt Nam. Về cơ bản, tình hình nước ta có nhiều thay đổi so
với năm 1959, do vậy việc áp dụng luật hôn nhân gia đình năm 1959 không còn
phù hợp. Chính vì thế, luật hôn nhân gia đình năm 1986 được xây dựng và hoàn
thiện. Gồm 10 chương và 57 điều, luật hôn nhân gia đình năm 1986 vẫn được xây
dựng và thực hiện trên các nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, nguyên tắc hôn
nhân một vợ một chồng, nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của cha
mẹ và con, bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Tuy nhiên, điểm mới trong luật hôn nhân năm
1986 đó chính là những quy định về việc huỷ kết hôn trái pháp luật. Trong khi luật
hôn nhân gia đình năm 1959 không quy định về vấn đề này, thì việc hủy kết hôn
trái pháp luật được quy định và ghi nhận rõ trong luật hôn nhân gia đình năm 1986
(Điều 9 chương II: “Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của Luật này
là trái pháp luật.
Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có
vợ, có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ
nữa Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có
quyền yêu cầu Toà án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật”).
Luật hôn nhân gia đình năm 1986 được Nhà nước ta ban hành trong những năm
đầu thời kỳ đổi mới. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đã tác động

- Cấm kết hôn giữa những người thân thích. (Điều 319 Luật Hồng Đức).
Riêng Bộ luật Hồng Đức còn quy định cấm kết hôn trong một số trường hợp
khác như:
- Cấm quan lại không được lấy con hát làm vợ. (Điều 323)
- Cấm học trò lấy vợ của thầy học đã chết, anh, em lấy vợ của em, anh đã
chết. (Điều 324).
- Cấm quan lại ở biên trấn kết thông gia với tù trưởng vùng đó. (Điều 33).
- Cấm quan ty lấy con gái trong hạt mình. (Điều 316).
Cổ luật đã quy định các trường hợp cấm kết hôn, vì vậy nếu việc kết hôn
phạm vào một trong những điều cấm đó thì hôn nhân bị coi là vô hiệu và về
nguyên tắc thì hôn nhân đó có thể bị tiêu huỷ. Tuy nhiên, hôn nhân là một quan hệ
có tầm quan trọng đặc biệt đối với vợ chồng, đối với các con, đối với gia đình và
đối với xã hội, do vậy mà trong cổ luật Việt Nam đã có những quy định nhằm giới
hạn những trường hợp có thể xin tiêu huỷ hôn nhân.
Ví dụ: Điều 316 Luật Hồng Đức đã quy định: đối với những trường hợp khi
các bên kết hôn đã vi phạm nghiêm trọng vào các điều cấm của luật tức là đã vi
phạm vào các điều kiện thiết yếu thì pháp luật không công nhận tính hợp pháp của
hôn nhân đó và cần phải tiêu huỷ hôn nhân. Tại Điều 317 và Điều 323 Luật Hồng
Đức có quy định các bên sẽ phải chia lìa hoặc phải ly dị khi vi phạm vào các điều
kiện quan trọng của việc xác lập hôn nhân. Sự tiêu huỷ hôn nhân trái pháp luật
trong cổ luật có sự khác biệt so với việc tiêu huỷ hôn nhân trong pháp luật hiện
hành. Tiêu huỷ hôn nhân trong cổ luật không có hiệu lực trở về trước mà chỉ có
hiệu lực trong tương lai. Có nghĩa là, hôn nhân vẫn có hiệu lực trong quá khứ.
Trước khi bị tiêu huỷ hôn nhân thì hôn nhân đó vẫn được coi là có giá trị pháp lý,
các bên tham gia quan hệ hôn nhân đó vẫn là vợ chồng, họ chỉ bị “chia lìa” hay “ly
dị” (kể từ khi hôn nhân của họ bị tuyên bố tiêu huỷ mà thôi. Như vậy, sự tiêu huỷ
hôn nhân trong cổ luật hoàn toàn giống với trường hợp ly hôn theo pháp luật hiện
hành).
Thông qua các quy định trong các Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long đã
cho phép chúng ta kết luận rằng, trong cổ luật hôn nhân bị coi là vô hiệu khi phạm


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status