Khảo sát thực trạng kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh bắc giang - Pdf 29


BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI
LÊ THỊ THU

KHẢO SÁT THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN
THUỐC TRONG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH BẮC GIANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƢỢC SĨ HÀ NỘI – 2015
BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI

LÊ THỊ THU

KHẢO SÁT THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN
THUỐC TRONG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH BẮC GIANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƢỢC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn:
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Tình hình kê đơn và sử dụng thuốc 3
1.1.1. Tình hình kê đơn và sử dụng thuốc trên thế giới 3
1.1.2. Tình hình kê đơn và sử dụng thuốc ở Việt Nam 7
1.2. Kê đơn thuốc và các tiêu chí đánh giá 14
1.2.1. Kê đơn thuốc 14
1.2.2. Nội dung của một đơn thuốc 16
1.2.3. Quy định về ghi đơn thuốc 16
1.2.4. Các chỉ số đo lƣờng sử dụng thuốc 17
1.2.4.1. Các chỉ số kê đơn 17
1.2.4.2. Các chỉ số sử dụng thuốc toàn diện 17
1.3. Vài nét về cơ sở nghiên cứu 18
1.3.1. Sơ đồ tổ chức bệnh viện 18
1.3.2. Quy mô, cơ cấu nhân lực 18
1.3.3. Khoa Dƣợc bệnh viện 19
.CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 20
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 20
2.3. Phƣơng pháp thu thập số liệu 20
2.4. Cỡ mẫu nghiên cứu và cách lấy mẫu 20
2.4.1. Cỡ mẫu nghiên cứu 20
2.4.2. Cách lấy mẫu 20

BÀN LUẬN 44
KẾT LUẬN 53
KIẾN NGHỊ 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
ADR
Adverse Drug Reaction
Phản ứng có hại của thuốc
BHYT


Không bảo hiểm Y tế
KS

Kháng sinh
KST

Kí sinh trùng
GN, HTT

Gây nghiện, hƣớng tâm thần
TCY

Thuốc chủ yếu
TB

Trung bình
TPCN

Thực phẩm chức năng
TTY

Thuốc thiết yếu
VNĐ

Việt Nam đồng
WHO
World Health
Organization
Tổ chức Y tế Thế giới
DANH MỤC BẢNG

34
3.10
Tỷ lệ đơn thuốc có kê thuốc tiêm
35
3.11
Tỷ lệ đơn thuốc có kê vitamin
36
3.12
Tỷ lệ đơn thuốc có kê TPCN
36
3.13
Tỷ lệ TTY đƣợc kê
37
3.14
Tỷ lệ TCY đƣợc kê
38
3.15
Tỷ lệ đơn thuốc có tƣơng tác
38
3.16
Tỷ lệ số tƣơng tác có trong một đơn
39
3.17
Mức độ tƣơng tác thuốc có trong đơn
40
3.18
Chi phí trung bình cho một đơn thuốc
41
3.19
Chi phí thuốc kháng sinh trung bình mỗi đơn thuốc

34
3.6
Tỷ lệ số tƣơng tác có trong 1 đơn BHYT
39
3.7
Tỷ lệ số tƣơng tác có trong 1 đơn KBHYT
39
3.8
Chi phí trung bình cho một đơn thuốc KBHYT
41
3.9
Chi phí trung bình cho một đơn thuốc BHYT
42 1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe là vốn quý nhất của con ngƣời. Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân
là bổn phận của mỗi ngƣời dân, gia đình, xã hội là trách nhiệm của các cấp ủy
đảng, cơ quan mặt trận Tổ quốc, mang tính cấp thiết của mỗi quốc gia trong đó
ngành y tế đóng vai trò chủ chốt. Thuốc đóng vai trò quan trọng và thiết yếu
trong công tác chữa bệnh và nâng cao sức khỏe ngƣời dân.
“Chính sách quốc gia về thuốc ở Việt Nam” đề ra hai mục tiêu là: Đảm bảo
cung ứng thƣờng xuyên và đủ thuốc có chất lƣợng đến tận ngƣời dân và đảm bảo
sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, có hiệu quả. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế thị trƣờng, thị trƣờng dƣợc phẩm Việt Nam đã và đang không ngừng biến đổi,
sản xuất đƣợc ngày càng nhiều thuốc mới, việc cung ứng thuốc và các dịch vụ y
tế dần đƣợc cải thiện. Ngƣời dân đƣợc đáp ứng nhu cầu về thuốc và tiếp cận với
các dịch vụ y tế cơ bản có chất lƣợng. Tiền thuốc bình quân đầu ngƣời tăng

đơn thuốc trong điều trị ngoại trú chƣa? Để trả lời hai câu hỏi trên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát thực trạng kê đơn thuốc trong điều trị
ngoại trú tại bệnh viện Đa Khoa tỉnh Bắc Giang” với 2 mục tiêu nhƣ sau:
1. Mô tả thực trạng thực hiện quy chế kê đơn về thủ tục hành chính cho bệnh
nhân ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang từ tháng 3/2015 đến tháng
4/2015.
2. So sánh các chỉ số kê đơn trong đơn thuốc ngoại trú của bệnh nhân bảo hiểm
y tế và bệnh nhân không bảo hiểm y tế.

3

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Tình hình kê đơn và sử dụng thuốc
1.1.1. Tình hình kê đơn và sử dụng thuốc trên thế giới
Trong những năm gần đây nhu cầu thuốc trên thị trƣờng thế giới có sự gia tăng
mạnh mẽ do sự phát triển của dân số thế giới và sự gia tăng tuổi thọ, nhu cầu
dùng thuốc nhiều, dùng các loại thuốc có tỷ trọng chất xám cao nên thƣờng đắt.
Trong việc sử dụng thuốc tồn tại hai vấn đề lớn. Đó là sự tiêu thụ thuốc chƣa
đồng đều giữa các nƣớc phát triển và đang phát triển [26]. Theo báo cáo của tập
đoàn IMS Health, thị trƣờng Bắc Mỹ chiếm tỷ lệ lớn nhất so với các khu vực
khác (khoảng 40% doanh số dƣợc phẩm bán ra trên thế giới hàng năm), trong
khi toàn bộ châu Á (trừ Nhật Bản), châu Phi, châu Úc chỉ chiếm 15% [34] và
vấn đề đáng chú ý là việc kê đơn không hợp lý, không an toàn, còn bệnh nhân
thì không tuân thủ theo chỉ định của bác sỹ, tình trạng bác sỹ kê đơn thiếu thông
tin khá phổ biến, lạm dụng thuốc, phối hợp thuốc không đúng, không ghi đủ liều
lƣợng, dạng thuốc. Tình trạng kê quá nhiều thuốc cho một bệnh nhân, lạm dụng
kháng sinh, thuốc tiêm, kê đơn kháng sinh cho bệnh không nhiễm trùng vẫn còn
diễn ra [47].
Tại các nƣớc đang phát triển, mặc dù chiếm 75% dân số thế giới nhƣng chỉ
tiêu thụ 21% sản lƣợng thuốc của thế giới, song sử dụng thuốc không đúng,

26,8%). Tỷ lệ % đơn có kê vitamin là 31% cao hơn so với giá trị khuyến cáo
của WHO (13,4% – 24,1%). Các kháng sinh đƣợc kê đơn nhiều nhất là
Amoxicillin (22,2%) và Ampicillin (21,3%). Qua các chỉ số nghiên cứu cho
thấy độ lệch giữa thực hành với khuyến cáo của WHO. Vì vậy cần thiết có một
chƣơng trình giáo dục y tế để hợp lý việc kê đơn [30].
5

Thị trƣờng dƣợc phẩm các nƣớc khối ASEAN có một số đặc điểm chung là
thuốc generic chiếm thị phần bình quân khoảng 40%, trong đó Singapore thấp
nhất là 9%, Việt Nam cao nhất 70% theo đánh giá của IMS. Có thể thấy rằng
trong các nƣớc ASEAN, thuốc generic chiếm một tỷ trọng đáng kể. Thuốc
generic là một thị trƣờng tiềm năng đồng thời là một giải pháp lựa chọn để
ngƣời dân các nƣớc đang phát triển có khả năng tiếp cận với thuốc thiết yếu
theo chính sách của Tổ chức Y tế Thế giới [25].
Tại một số quốc gia nhƣ Pakistan, Ghana, Uzbekistan, có trên 60% bệnh nhân
đƣợc sử dụng thuốc tiêm trong khi tỷ lệ trung bình của thế giới chỉ là 23%.
WHO đang cảnh báo về tác hại của việc tiêm thuốc: Khoảng 50% bệnh nhân
đang đƣợc kê đơn thuốc tiêm tại các cơ sở y tế trên toàn cầu và có tới 90% số ca
là không cần thiết. Thực trạng đó đã tạo ra 15 tỷ lƣợt tiêm hàng năm trên toàn
cầu và 50% số đó đƣợc tiêm bằng kim chƣa tiệt trùng. WHO cũng ƣớc tính rằng
mỗi năm có khoảng 4,7 triệu ca nhiễm virus viêm gan B hoặc C và 160000 ca
nhiễm HIV có liên quan đến kê đơn sử dụng thuốc tiêm [35].
Ở nhiều nƣớc đang phát triển, ngƣời ta đã thống kê số thuốc đƣợc bán ra cao
hơn rất nhiều so với số lƣợng bệnh tật cần điều trị. Kết quả khảo sát cho thấy có
khoảng 45% bệnh nhân trên toàn cầu có sử dụng kháng sinh khi ốm đau, đặc
biệt tỷ lệ này lên tới trên 70% ở một số nƣớc nhƣ Indonesia, Ấn Độ, Pakistan.
Nghiên cứu về việc kê đơn tại một bệnh viện thực hành ở Thái Lan
Udomthavomsuk thấy có tới 52,3% dùng kháng sinh không đúng và không cần
thiết. Việc sử dụng kháng sinh dự phòng ngoại khoa cũng có tỷ lệ không hợp lý
cao (79,7%) [29]. Tình trạng kê đơn quá nhiều thuốc, lạm dụng kháng sinh,

hiện chiến lƣợc toàn cầu ngăn chặn sự đề kháng kháng sinh là “Đào tạo ngƣời
7

kê đơn, ngƣời cung ứng và hƣớng dẫn sử dụng”. Điều này chứng tỏ việc đào tạo
và hƣớng dẫn sử dụng kháng sinh cho các bác sỹ và dƣợc sỹ là cần thiết và cấp
bách cho tất cả các nƣớc trên thế giới [43].
Thuốc là “con dao hai lƣỡi” vì có thể gây ra những phản ứng có hại ở nhiều
mức độ, thậm chí tử vong kể cả dùng đúng liều, đúng quy định, các phản ứng
nhƣ vậy gọi là phản ứng bất lợi. Điều trị nhiều thuốc thì tần suất ADR tăng lên
theo cấp số nhân với số lƣợng thuốc có trong 1 lần điều trị. Tại Mỹ, một đánh
giá trên nghiên cứu của Lazarou cho thấy năm 2004 có 2,2 triệu phản ứng có hại
của thuốc đã xảy ra ở những ngƣời đang điều trị trong bệnh viện (6,7%) và gây
ra 106000 ca tử vong [27].
Tình hình quảng cáo thuốc cũng rất đáng lo ngại. Tìm hiểu 183 quảng cáo
thuốc ở 11 nƣớc khu vực châu Âu, với các thuốc không phải kê đơn, ngƣời ta
chỉ thấy có 3 quảng cáo đảm bảo đủ các yêu cầu theo quy định của liên minh
châu Âu và các tiêu chuẩn về đạo đức của Tổ chức Y tế Thế giới, 91 quảng cáo
không chỉ dẫn cụ thể cách dùng, 53 quảng cáo mang tính y tế cho các sản phẩm
không đƣợc đăng ký là thuốc, 53 quảng cáo không ghi tên gốc (chỉ ghi biệt
dƣợc)…Đặc biệt, khoảng không gian dành cho tranh hay các bức minh họa
thƣờng lớn hơn nhiều so với lời ghi hƣớng dẫn [29].
1.1.2. Tình hình kê đơn và sử dụng thuốc ở Việt Nam
Kinh tế phát triển, chất lƣợng của ngƣời dân đang ngày càng đƣợc cải thiện
làm tăng nhu cầu chăm sóc sức khỏe, kéo theo làm tăng nhu cầu sử dụng thuốc.
Theo báo cáo của Cục Quản lý dƣợc, tiền thuốc bình quân đầu ngƣời tại Việt
Nam tăng lên nhanh chóng trong các năm gần đây. Năm 2007, tiền thuốc bình
quân đầu ngƣời là 13,39 USD/năm, đến năm 2014, tiền thuốc bình quân đầu
ngƣời đã tăng lên mức 33 USD/năm. Chi phí thuốc khám chữa bệnh ở nƣớc ta
chiếm tới 60%, thậm chí ở một số bệnh viện chiếm tới 70-80%, con số này quá
8

Phần lớn ngƣời dân sử dụng KS khi mắc bệnh và ngừng sử dụng khi các triệu
chứng thuyên giảm chứ không tuân thủ đầy đủ liệu trình điều trị của thầy thuốc
[19]. Nhƣ vậy, rất khó đảm bảo việc bệnh nhân nhiễm trùng ra viện sẽ tiếp tục
dùng KS theo y lệnh của bác sỹ. Điều này đòi hỏi các bác sỹ khi kê đơn thuốc về
nhà cho bệnh nhân nhiễm trùng phải hƣớng dẫn và giải thích cụ thể để bệnh nhân
hiểu và tiếp tục điều trị theo đơn [29].
Thuốc kháng sinh đang đƣợc lựa chọn nhƣ một giải pháp phổ biến. WHO vẫn
khuyến cáo thực trạng kê đơn kháng sinh đáng lo ngại trên toàn cầu, tới mức
trung bình 30-60% bệnh nhân đƣợc kê thuốc kháng sinh và tỉ lệ này cao gấp đôi
so với nhu cầu lâm sàng. Tại Bệnh viện Bạch Mai, tỷ lệ sử dụng kết hợp KS
trong điều trị ngoại trú tƣơng đối phổ biến (45,9% đối với đơn KBHYT và
37,67% đối với đơn BHYT) và chủ yếu là kết hợp 2 KS. Kết quả nghiên cứu tại
BV Đà Nẵng có 36,5% đơn ngoại trú có kê KS, tại BVĐK Vĩnh Phúc là 59,5%
[12]. Việc kê đơn KS không dựa vào KS đồ đã tạo ra thói quen kê thuốc KS phổ
rộng, phối hợp nhiều KS cho 1 bệnh nhân. Thực tế cho thấy có đến 34,5% bệnh
nhân nhiễm trùng sử dụng nhiều hơn 1 loại KS trong 1 đợt điều trị [12].
Trong kê đơn, việc lạm dụng vitamin và thuốc bổ còn xảy ra phổ biến. Theo
nghiên cứu tại bệnh viện Tim Hà Nội, số đơn có kê vitamin chiếm tỷ lệ 35%
tổng số đơn [12]. Qua nghiên cứu của Phạm Trí Dũng tại 10 tỉnh/Thành phố
nhận thấy nhu cầu sử dụng vitamin ở cộng đồng là rất lớn dao động từ 45,9%
đến 74,9% số ngƣời đang dùng thuốc đƣợc chọn ngẫu nhiên hiện có sử dụng
vitamin và 50,9% những ngƣời mua thuốc đƣợc chọn ngẫu nhiên đã mua
vitamin. Các vitamin đƣợc kê đơn nhiều nhất là vitamin C (46,6%), B1 (18,7%),
vitamin kết hợp (17,3%). Vitamin luôn có sẵn tại các điểm bán lẻ thuốc: Tại một
điểm bán lẻ thuốc trung bình chế phẩm vitamin chiếm 13,4% tổng danh mục
10

thuốc bán lẻ. Thầy thuốc luôn kê đơn thuốc có vitamin nhƣ là một thuốc bổ trợ.
Nghiên cứu tại 10 tỉnh/Thành phố này cho thấy có tới 66,1% số đơn thuốc đƣợc
khảo sát có chế phẩm vitamin. Nhƣ vậy, cả 3 yếu tố: ngƣời tiêu dùng, ngƣời

bác sỹ, dƣợc sỹ không đƣợc cập nhật các thông tin mới về sử dụng thuốc và
không đủ thời gian để kiểm tra tƣơng tác thuốc qua phần mềm đƣợc trang bị tại
bệnh viện [22].
Thông tin của bệnh nhân dù không tác động trực tiếp đến việc sử dụng thuốc
trong đơn nhƣng là một thành phần quan trọng khi cần thông tin đến bệnh nhân
các thông tin về thuốc và điều trị sau kê đơn (chẳng hạn hƣớng dẫn bệnh nhân
tuân thủ điều trị tại nhà, thông báo thu hồi thuốc có vấn đề về chất lƣợng). Các
kết quả nghiên cứu tại bệnh viện nhân dân 115 cho thấy: các đơn thuốc có sai sót
thông tin bệnh nhân (họ tên, tuổi, giới, địa chỉ) là 98%, các đơn có sai sót về
cách ghi tên thuốc là 40,4%, các đơn thiếu thời điểm dùng thuốc chiếm tỷ lệ
54%, trong đó nhiều nhóm thuốc thiếu thời điểm dùng thuốc chiếm tỷ lệ cao:
nhóm ức chế bơm proton (90,9%), rối loạn lipid (86,1%), nhóm ức chế tiểu
đƣờng (58,7%), chống viêm không steroid (46,1%). Việc kê đơn thuốc tại khoa
khám bệnh Bệnh viện nhân dân 115 còn nhiều bất cập. Để cải thiện bất cập này,
quy trình kê đơn điện tử đang dần đƣợc ứng dụng [24].
Bên cạnh đó là hiện tƣợng các bác sỹ kê đơn thuốc theo tên biệt dƣợc đang diễn
ra phổ biến. Tỷ lệ thuốc đƣợc kê theo tên gốc thấp, ở BV Phụ Sản Trung Ƣơng là
4,42% [12], ở BV Xanh Pôn là 12,5% [9]. Kê thuốc KS bằng tên gốc
Cefuroxime thì loại của nội chỉ có giá 4.500 đồng/viên. Còn nếu kê bằng biệt
dƣợc Zinnat của ngoại, loại cùng hàm lƣợng, giá của nó lên đến 13.000
đồng/viên [21]. Tình hình lạm dụng tên thuốc biệt dƣợc theo quảng cáo trong các
12

đơn thuốc kê cho bệnh nhân hiện nay đang là vấn nạn không chỉ riêng ở nƣớc ta
[16].
Trong khi thị trƣờng thuốc phát triển nhanh chóng, mang tính “đột biến” khó
kiểm soát, khó cho sự theo kịp về nhận thức của cả thầy thuốc, ngƣời bán thuốc,
ngƣời bệnh phải dùng thuốc thì việc quảng cáo thuốc lại chƣa đƣợc quản lý tốt.
Theo kết quả nghiên cứu của Đào Văn Phan và cộng sự, hầu hết (90%) các trình
dƣợc viên không hề đƣợc biết đến tiêu chuẩn đạo đức trong quảng cáo, thông tin

ngƣời Việt Nam, bao gồm cả bác sĩ và dƣợc sĩ vẫn ƣa chuộng hàng ngoại. Thống
kê chính thức cho thấy, bác sĩ Việt Nam chỉ kê 20%-30% thuốc nội trên tổng số
thuốc cho bệnh nhân. Trong tiềm thức của ngƣời Việt, thuốc đắt là thuốc tốt. Mà
hiển nhiên rằng, thuốc nhập khẩu vẫn đắt hơn thuốc nội. Vì vậy, thuốc nội vẫn
đang bị lép vế ở thị trƣờng nội địa do những quan niệm sai lầm này.
Một điểm đáng ngạc nhiên trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu tại BV Nội
Tiết Trung Ƣơng là nếu trong kê đơn bảo hiểm không có thuốc nào nằm ngoài
DMT của bệnh viện thì trong kê đơn thuốc không bảo hiểm, tỷ lệ thuốc nằm
ngoài DMTBV lại khá cao (35,9%) [22]. Hiện nay, các BV đều xây dựng quy
trình lựa chọn thuốc và danh mục thuốc riêng cho từng bệnh viện. Tuy nhiên,
qua một số nghiên cứu cho thấy công tác lựa chọn thuốc chủ yếu vẫn dựa trên
kinh nghiệm, số liệu sử dụng thuốc năm trƣớc, kinh phí thuốc của năm hiện tại
và dự báo nhu cầu thuốc do các khoa phòng lâm sàng đề nghị. Yếu tố về mô hình
bệnh tật và xây dựng thuốc phải dựa trên phác đồ điều trị chuẩn vẫn chƣa đƣợc
chú trọng. Nghiên cứu của Phạm Thị Mận và cộng sự tại BV Da Liễu Trung
Ƣơng, DMT của BV chỉ mới áp dụng cho bệnh nhân điều trị nội trú và ngoại trú
14

có thẻ BHYT mà chƣa quan tâm tới DMT kê đơn đƣợc bán tại nhà thuốc BV
[15].
Việc áp dụng quy trình kê đơn điện tử chƣa đƣợc áp dụng rộng rãi mà mới chỉ
phổ cập ở một vài bệnh viện lớn. Đa số các bệnh viện trên cả nƣớc vẫn kê đơn
viết tay. Một nghiên cứu của Trƣờng Đại học Dƣợc Hà Nội cho thấy, kê đơn
điện tử đƣợc xem nhƣ một biện pháp can thiệp có hiệu quả để làm giảm có ý
nghĩa số lƣợng kê đơn có sai sót hoặc tiềm ẩn gây hại cho ngƣời bệnh bằng cách
tạo ra mẫu đơn thuốc có sẵn trong phần mềm máy tính và cung cấp hỗ trợ quyết
định ở thời điểm kê đơn sử dụng cảnh báo và lời nhắc. Tại các bệnh viện công
lập Việt Nam, khu vực điều trị ngoại trú luôn gặp áp lực bệnh nhân đông, thời
gian khám, kê đơn và tƣ vấn dùng thuốc của bác sỹ bị rút ngắn làm gia tăng khả
năng xảy ra sai sót kê đơn, nhất là khi đơn thuốc đƣợc ghi bằng tay [26].

tình huống này là việc kê đơn sử dụng kháng sinh với liều thấp, không đủ liệu
trình hay sử dụng kháng sinh cho các bệnh nhân không có dấu hiệu nhiễm
khuẩn. Điều này góp phần làm tăng nguy cơ kháng thuốc.
Kê đơn thuốc không hợp lý dẫn đến hậu quả không mong muốn cả về kinh tế
lẫn sức khỏe:
 Làm giảm hiệu quả điều trị của thuốc dẫn đến kéo dài thời gian điều trị, tăng
tỷ lệ bệnh tật và tăng nguy cơ tử vong.
 Khó kiểm soát các tác dụng không mong muốn, các phản ứng phụ và khả
năng tƣơng tác giữa các thuốc dẫn đến mất an toàn trong quá trình sử dụng,
ảnh hƣởng đến sức khỏe và tính mạng của ngƣời bệnh.
 Sử dụng thuốc không hợp lý làm gia tăng tình trạng kháng thuốc, nhất là đối
với thuốc kháng sinh.
16

Tất cả các hậu quả trên, ngoài ảnh hƣởng về mặt sức khỏe đều dẫn đến việc
lãng phí nguồn lực vốn đã hạn hẹp dành cho công tác chăm sóc sức khỏe [29].
1.2.2. Nội dung của một đơn thuốc
Theo khuyến cáo của WHO, một đơn thuốc đầy đủ bao gồm các nội dung sau:
 Tên, địa chỉ, số điện thoại của ngƣời kê đơn
 Ngày tháng
 Tên gốc của thuốc, hàm lƣợng
 Dạng thuốc, tổng số thuốc
 Nhãn bao thuốc: hƣớng dẫn, cảnh báo
 Tên, địa chỉ, tuổi bệnh nhân
 Chữ ký của ngƣời kê đơn [41].
1.2.3. Quy định về ghi đơn thuốc
Để tăng cƣờng sự an toàn, hiệu quả và hợp lý trong công tác kê đơn tại các
bệnh viện trên cả nƣớc, Bộ Y tế đã ban hành “Quy chế kê đơn thuốc trong điều
trị ngoại trú kèm” theo Quyết định số 04/2008/QĐ – BYT ngày 01 tháng 02
năm 2008 của Bộ trƣởng Bộ Y tế. Điều 7 của Quy chế kê đơn thuốc trong điều


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status