Nghiên cứu về chẩn đoán và xử trí thai chết lưu đẻ tại bệnh viện phụ sản trung ương - Pdf 37

B GIO DC V O TO
B Y T
TRNG I HC Y H NI

PHM HUY CNG

Nghiên cứu về chẩn đoán và xử trí
thai chết lu đẻ tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương
Chuyờn ngnh: Sn ph khoa
Mó s

: 60720131

CNG LUN VN THC S Y HC

Ngi hng dn khoa hc:
PGS.TS. NG TH MINH NGUYT

H NI 2015


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BV........................................... Bệnh viện
BVPSTƯ ................................ Bệnh viện Phụ sản Trung ương
BN...........................................Bệnh nhân
CCTC ..................................... Chiều cao tử cung
ĐMRRTLM ........................... Đông máu rải rác trong lòng mạch
GCD ....................................... Gây chuyến dạ
LS ........................................... Lâm sàng
TSG ........................................ Tiền sản giật
NST ........................................ Nhiễm sắc thể

nguyên nhân của TCL đã được làm sáng tỏ nhưng vẫn còn một tỷ lệ lớn TCL
chưa rõ nguyên nhân [1],[2]. Tuy nhiên, số bệnh nhân bị TCL không giảm
[3]. Các phương pháp xử trí, điều trị TCL cũng được cải tiến, thay đổi qua các
thời kỳ với mục đích làm giảm tối đa các tai biến cho người mẹ [4]. Theo
thống kê, số bệnh nhân TCL vào điều trị tại BVPSTƯ ngày một tăng lên:Năm
1982 - 1984 có 204 bệnh nhân TCL vào viện điều trị [5], năm 1994 - 1995 có
667 bệnh nhân TCL vào viện điều trị [6], năm 1996 - 1997 có 736 bệnh nhân
TCL vào viện điều trị [7], năm 1999 - 2000 có 1202 bệnh nhân TCL vào viện
điều trị [8], năm 2006- 2007 có 652 bệnh nhân TCL đẻ tại viện [9].


Xuất phát từ thực tế này, đã có một số nghiên cứu về TCL nhằm mục
đích chẩn đoán và điểu trị, một số nghiên mới đã được áp dụng vào chẩn đoán
và điều trị như sử dụng Cytotec, Cerviprime. Số lượng bệnh nhân TCL vào
viện điều trị ngày một tăng có thực sự là tỉ lệ TCL đang tăng lên hay là do
hiện nay người bệnh mới có điều kiện tới BVPSTW điều trị, do đó chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu về chẩn đoán và xử trí thai chết
lưu đẻ tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương”.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài gồm:
1.

Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng thai chết lưu trong tử cung đẻ
tại Bệnh viện Phụ sản trung ương năm 2014-2015.

2.

Nhận xét kết quả xử trí thai chết lưu ở những trường hợp trên.


Chương 1

Amand
0,8%
Tại Việt Nam: theo các thống kê trước đây:
-

BVPSTƯ tỷ lệ TCL: 4,4% so với tổng số đẻ [13].


- BV Từ Dũ - TPHCM: 1 % so với tổng số đẻ [1].
Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả tại bệnh viện PSTƯ.
- Trần Hán Chúc, Phan Trường Duyệt, Nguyễn Đức Hĩnh năm 1992 1993 tỷ lệ TCL là 3,8% so với tổng số đẻ [15].
-Nguyễn Đức Hĩnh, Phạm Thanh Nga năm 1994 - 1995 tỷ lệ TCL
là4,4% so với tổng số đẻ [6].
-

Phan Xuân Khôi năm 1999 - 2000 tỷ lệ TCL là 7,1% so với tổng số đẻ [8].
Nguyễn Thị Huệ năm 2006-2007 tỷ lệ TCL là 1,22% so với tổng số đẻ [3].
Sự chênh lệch tỷ lệ TCL giữa các tác giả nước ngoài và trong nước là do
những quy định về tiêu chuẩn TCL của các nước không thống nhất. Ngoài ra,
tỷ lệ này còn bị chi phối bởi những nguyên nhân khác như: trình độ dân trí,
chế độ dinh dưỡng, chủng tộc ...[16] , [17].
1.3. TÌM HIỂU CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI THAI CHẾT LƯU
TRONG TỬ CUNG
Sự phát triển của bào thai liên quan đến tất cả các yếu tố từ cơ sở vật chất di
truyền, noãn, tinh trùng, sự thụ tinh, làm tổ trong buồng tử cung đến sức khoẻ
người mẹ. Những bất thường các yếu tố trên đều có thể dẫn đến TCL.
1.3.1. Sơ lược sự thụ tinh, làm tổ và các giai đoạn phát triển phôi thai
trong tử cung
* Sự thụ tinh: Hiện tượng thụ tinh thường diễn ra 1/3 ngoài vòi trứng.
Noãn và tinh trùng chứa số nhiễm sắc thể (NST) đơn bội (23NST). Khi thụ

năng. Những tác nhân bất lợi tác động vào giai đoạn này sẽ tạo các bất thường
về chức năng, nếu bị tác động quá mạnh thường dẫn đến TCL[13].
1.3.2. Một số yếu tố nguy cơ tới thai chết lưu trong tử cung
Các nghiên cứu trước đây ghi nhận một tỷ lệ lớn TCL là không rõ
nguyên nhân [18]. Các nguyên nhân được tổng kết theo 3 nhóm: một số yếu
tố nguy cơ về phía mẹ, một số yếu tố nguy cơ về phía thai và một số yếu tố
nguy cơ về phía phần phụ của thai.
1.3.2.1. Một số yếu tố nguy cơ về phía mẹ
* Tuổi của mẹ.
Nguy cơ TCL có biến đổi theo nhóm tuổi, theo Lê Văn Điển và
Nguyễn Huy Cận tuổi thai phụ từ 21 - 35, TCL chiếm tỷ lệ 68,12% [19], Theo
Lê Thiện Thái những thai phụ tuổi từ 26 - 30 chiếm tỷ lệ TCL cao nhất 43 6%
và từ 21 - 35 tuổi chiếm 66,7% [5]. Theo Nguyễn Đức Hinh những thai phụ


dưới 35 tuổi chiếm tỷ lệ TCL 72,1% [20]. Kết quả của tác giả Phan Xuân
Khôi cho thấy những thai phụ tuổi từ 20 - 34, TCL chiếm 72% [8].
Các tác giả cũng đã giải thích tỷ lệ cao này do độ tuổi sinh đẻ, hoạt
động xã hội, lao động trong nhiều mồi trường khác nhau và tiếp xúc, liên hệ
nhiều trong xã hội. Theo Lê Văn Thương, Nguyễn Vũ Quốc Huy, Lê Văn An
thai phụ 26 - 30 tuổi tỷ lệ TCL 33,3%, dưới 20 tuổi tỷ lệ TCL 1,5% và trên 40
tuổi tỷ lệ TCL 7,6% [21]. Điều này chứng tỏ rằng nếu mang thai quá sớm
hoặc quá muộn thì tỷ lệ TCL đều cao [16].
* Nghề nghiệp của thai phụ:
Nghề nghiệp là yếu tố có liên quan tỷ lệ TCL. Theo nghiên cứu của Lê
Văn Điển và Nguyễn Huy Cận nông dân chiếm tỷ lệ TCL 43,85%, cán bộ chiếm
tỷ lệ TCL 8,7% [11]. Trần Ngọc Kính và Bùi Xuân Quyền đã có tổng kết, tỷ lệ
TCL ở công nhân và nông dân chiếm tỷ lệ khá cao 66,6% [22]. Lê Văn Thương
đã lý giải những nông dân có tỷ lệ TCL cao bởi kinh tế còn khó khăn, điều kiện
sống thấp, mức độ dân trí chưa cao, hiểu biết của nhân dân về sức khoẻ và y tế

Tỷ lệ thai chết rất cao khi tiền sản giật có biến chứng sản giật, rau bong non
[13], [24].
- Mẹ bị các bệnh nhiễm ký sinh trùng, sốt rét, sốt rét ác tính, thai bị
chết gần như 100% [13].
- Nhiễm khuẩn giang mai, virus, HIV trong các trường hợp này thai có
thể bi chết vì tác động trực tiếp của nguyên nhân lên các giai đoạn phát triển
của thai và bánh rau [1].
Mỗi khi người mẹ bị sốt vì bất kỳ nguyên nhân gì cũng dễ bị TCL do khả
năng thải nhiệt của thai rất kém, hệ thống điều nhiệt của thai chưa hoạt động.


Tử cung người mẹ dị dạng, nhi tính, tử cung kém phát triển gây cho
trứng làm tổ không tốt và nuôi dưỡng kém có thể dẫn đến TCL [25].
Theo thống kê của một số tác giả tỷ lệ TCL nguyên nhân từ bệnh lý mẹ
như kết quả của Lê Văn Điển và Nguyễn Huy Cận 1961 [11] cho thấy:
Bảng 1.2. Thai chết trong tử cung do các bệnh của người mẹ
Tác giả nước ngoài

Bệnh lý người mẹ

N

Tỷ lệ %

Amaud 1950

Tiền sản giật

53


chiếm gần 8% [4].
Theo Phan Xuân Khôi nghiên cứu tại BVPSTƯ trong 2 năm 1999 2000 nhân thấy thai phụ TCL có tiền sử bệnh lý chiếm 4,1% [8].
1.3.2.2. Một số yếu tố nguy cơ về phía thai
-

Rối loạn nhiễm sắc thể (NST): là nguyên nhân chủ yếu TCL ở 3 tháng đầu
có thể do di truyền từ bố mẹ, hoặc quá trình đột biến NST trong quá trình
phát triển phôi thai. Trong giai đoạn hợp tử, nếu bị chết sớm, thường do bất
thường về trứng và tinh trùng. Ví dụ ung thư tiền liệt tuyến cũng gây nên
TCL [23].
Ở người đàn ông khoẻ mạnh hình thái tinh trùng bình thường khoảng
>70%, số tinh trùng bất thường khoảng 30%.


Bất bình thường về trứng: Khi tuổi mẹ > 40 tuổi thì nguy cơ phân ly
NST xảy ra ở trứng càng tăng [13].
Tác giả Lê Văn Thương đã xác định ở những thai phụ làm việc ở môi
trường tiếp xúc với thuốc trừ sâu có TCL chiếm 43% trong tổng số TCL được
nghiên cứu [21].
Năm 2000 tác giả Vanroose - G, De - Kruif - A, Van - Soon đã nghiên
cứu sự chết phôi sớm có thể là 7% do nguyên nhân không nhiễm khuẩn trong
đó chủ yếu do NST [26],[27].
- Thai dị dạng: Theo lý thuyết từ khi hợp tử hình thành, cho tới khi một
đứa trẻ ra đời trải qua nhiều giai đoạn. Ở mỗi thời điểm, mỗi giai đoạn, những
hợp tử, phôi thai, bất thường nhiều sẽ bị chết. Điều đó lý giải rằng cho tới khi
hình thành một cá thể, các bất thường đã được loại bỏ. Theo nghiên cứu của
Nguyễn Huy Bạo thai dị dạng chết lưu chiếm tỷ lệ 8,9% TCL [4]. Các tài liệu
nước ngoài cũng nghiên cứu kỹ về thai dị dạng[25],[18].
- Nghiên cứu tại BV Phụ Sản Hà nội 1980 - 1984 của Trần Ngọc Kính
và Bùi Xuân Quyền cho thấy rằng thai dị dạng chết lưu chủ yếu do: phù gai

chiếm 2-3%.Những dị dạng là nguyên nhân của 20% tử vong do sơ sinh [12].
Cho đến nay, không dễ dàng xác định nguyên nhân cụ thể: Bên cạnh
những yếu tố di truyền, còn có những yếu tô' khác như mồi trường, các yếu tố
liên quan đến sự trao đổi chất giữa mẹ và con và những cơ chế của sự phát
triển bào thai mà người ta còn chưa rõ [18],[30].
• Bất đồng miễn dịch do yếu tố Rh:
Năm 1941, Landsteiner đã tìm ra yếu tố Rh, có trong một loại khỉ
Maccacus Rhecus và sau đó ông đã tìm ra yếu tố Rh ở người. Ở một số người
tìm thấy yếu tố Rh ký hiệu Rh(+), người không có yếu tố Rh ký hiệu là Rh(- ).
Nếu mẹ có nhóm máu Rh(-)’ người bố có nhóm máu Rh (+) khi mang
thai, thai nhi có Rh(+), cơ thể mẹ từ từ sinh ra kháng thể Rh gây nên hiện
tượng tương kỵ giữa mẹ và con. Hậu quả gây nên TCL tần suất cao trong
những lần mang thai kế tiếp, vì mức độ kháng kháng thể Rh của mẹ cao dần.
- Ở người da trắng 85% có yếu tố Rh(+) trong máu và 15% là Rh(-)[1].
Ở người da vàng gần như tất cả đều có yếu tố Rh(+) vì vậy những biến chứng
đối với thai do yếu tố Rh ít quan trọng [1].
* Thai già tháng: Một số tài liệu giải thích rằng thai già tháng bánh rau
thoái hoá dần sẽ làm giảm lượng cung cấp oxy và các chất dinh dưỡng cho
thai nhi, trong khi nhu cầu của thai nhi càng tăng. Hậu quả là thai suy dinh
dưỡng trường diễn, sụt cân... đặc biệt làm giảm lượng mỡ dưới da và khối


lượng cơ gây thai suy nặng có thể chết trong tử cung [1]. Những năm gần đây
tỷ lệ thai già tháng tăng dần kèm theo tỷ lệ TCL do thai già tháng cũng tăng
lên [8].
* Đa thai
Hiện tượng truyền máu có thể xảy ra trong trường hợp đa thai. Thai cho
máu dễ bị chết lưu [4]. Hiện tượng này có thể xảy ra sớm khi còn là phôi thai,
phôi sẽ chết và tiêu đi mà không có biểu hiện lâm sàng. Thực tê siêu âm đã
chứng minh trong quá trình phát triển bào thai giai đoạn sớm xác định có hai

Tuỳ theo thai chết ở giai đoạn nào của bào thai học (sắp xếp tổ chức
hoặc hoàn chỉnh tổ chức) tuỳ theo ối còn hay vỡ mà có thể thấy các hình thái
sau đây:
- Thai bị teo đét: Các tổ chức đông đặc, chắc lại, da xám nhăn nheo bọc
lấy xương, nước ối đặc sánh lại, vẩn đục và cuối cùng sẽ khô đi chỉ để lại một
lớp sáp trắng bệch xung quanh thai đã teo đét.
- Thai bị ủng mục (thai chết lột): Lớp ngoại bì sẽ bị lột dần từ bàn chân lên
đến mắt cá chân, chi dưới, bụng, lưng, chi trên và mặt, đầu. Các tổ chức bị huỷ hoại
máu tan ra dần, lớp nội bì lột trần, thấm hemoglobin nên có màu đỏ tím.
-Thai bị thối rữa: Nếu ối bị vỡ, thai chết là môi trường vô cùng thuận lợi
nên vi khuẩn phát triển nhanh, các loại vi khuẩn kỵ khí có thể gây hoại thư sinh
hơi ở tử cung, nhiễm vi khuẩn sẽ lan rất nhanh và gây nguy hiểm cho người mẹ.
1.5. CHẨN ĐOÁN THAI CHẾT TRONG TỬ CUNG.
Triệu chứng lâm sàng của TCL trên 22 tuần thường rõ ràng, làm bệnh nhân
phải đi khám bệnh ngay, và vấn đề chẩn đoán phân biệt cũng ít khi đặt ra.
+ Đã có các dấu hiệu thai rõ ràng
- Thai máy, người mẹ đã có thể nhận biết được cử động của thai.


- Tim thai (+) đã xác định bằng ống nghe gỗ, qua máy nghe tim thai hoặc
qua siêu âm...
+ Các triệu chứng thai chết:
- Thai hết máy là triệu chứng chủ quan làm cho người mẹ chủ động đi
khám thai. Đây là triệu chứng phổ biến nhất, theo nghiên cứu của Phan Xuân
Khôi [8] tỉ lệ này là 53,7%, Phùng Quang Hùng [32] là 50,9%
- Bụng nhỏ dần, chiều cao tử cung giảm do sự không phát triển của thai
và không sản sinh nước ối trong TCL.
- Vú tiết sữa non, triệu chứng này ngày nay gần như không gặp
- Ra máu âm đạo (ít gặp hơn so với thai dưới 22 tuần)
- Tim thai (-): Khi xác định bằng ống nghe gỗ, bằng máy Doppler hoặc

- Các thủ thuật dễ gây nhiễm khuẩn và có thể gây những tổn thương tử
cung (thủng, dính tử cung).
Theo các tác giả:
- Lê Văn Điển và Nguyễn Huy Cận tỷ lệ sẩy đẻ TCL tự nhiên 33,3% [11]
- Nguyễn Thiện Thái tỷ lệ sẩy đẻ TCL tự nhiên 54,4% [5]
- Nguyễn Đức Hỉnh tỷ lệ sẩy đẻ TCL tự nhiên 32,2% [20]
- Phan Xuân Khôi tỷ lệ sẩy đẻTCL tự nhiên 17,6% [8]
Đẻ TCL: trong những tháng cuối, thai có thể ra với những đặc điểm:
- Cơn co yếu
- Đầu ối hình quả lê.
- Ngôi thai bình chỉnh không tốt.
Năm 1957, theo nghiên cứu của Triconni và Kohl phần lớn các thai đều
sẩy hoặc đẻ tự nhiên sau khi thai chết trong buồng tử cung. Khoảng 75% TCL
sẽ sẩy, đẻ tự nhiên vào cuối tuần thứ hai sau khi thai chết và hơn 90% TCL
sẩy, đẻ tự nhiên vào cuối tuần thứ 3 [33] ,[12].
Các tác giả cũng thông báo nếu TCL bị giữ lại trong buồng tử cung lâu
quá 5 tuần thì người mẹ có thể bị đông máu rải rác trong lòng mạch


(ĐMRRTLM). Theo Nguyễn Đức Hĩnh thời gian TCL lưu lại dưói 1 tháng
hầu như không có nguy cơ RLĐM [20].
1.6.2. Biến chứng
1.6.2.1. Biến chứng rối loạn đông máu
Rối loạn đông máu là một biến chứng nặng của TCL. Thromboplastin
có trong nước ối, có trong tổ chức thai chết đi vào tuần hoàn người mẹ. đặc
biệt là khi tử cung có cơn co hay can thiệp vào buồng tử cung, sự hoạt hoá
quá trình đông máu, gây ra đông máu rải rác trong lòng mạch. Đông máu rải
rác trong lòng mạch ở TCL có đặc điểm là quá trình tiêu sinh sợi huyết thứ
phát chiếm ưu thế, dẫn đến biểu hiện lâm sàng là chảy máu, fibrinogen trong
máu tụt thấp hay không có. Quá trình đông máu rải rác trong lòng mạch có

năng của cơ thể làm cho quá trình chảy máu thêm nặng nề hơn [4], [35].
- Tiền sử sản khoa: Số lần sẩy, đẻ, số lần nạo hút, tiền sử TCL, mổ ở tử
cung đều có liên quan đến RLĐM và chảy máu vì đều ỉàm tử cung bị tổn
thương các quá trình làm thủ thuật có thể có những tai biến như nhiễm khuẩn,
thủng tử cung, dính buồng tử cung... đều làm cho cơ chế cầm máu của tử cung
bị ảnh hưởng có thể chảy máu nghiêm trọng [4],[36].
- Yếu tố về phía thai
Tuổi thai càng nhỏ, được chẩn đoán sớm ít bị rối loạn đông máu hơn.
Theo các nghiên cứu của Nguyễn Đức Hinh, Ngô Văn Tài, Phan Xuân Khôi
đều cho thấy thai dưới 12 tuần RLĐM và chảy máu rất ít xảy ra, mặt khác
cũng giúp cho người thầy thuốc dễ dàng hơn trong xử trí [15],[7].
* Yếu tố về phía phần phụ của thai


Các trường hợp rau tiền đạo, rau bong non, bánh rau xơ hóa, rau trong
thai già tháng đều tăng nguy cơ chảy máu đôi khi làm cho thầy thuốc phải cân
nhắc đến quyền lợi người mẹ, ví dụ mổ một thai chết luôn là điều không
mong muốn của người thầy thuốc sản khoa [19].
- Chảy máu liên quan đến thời gian tiềm tàng
Các nghiên cứu cho thấy thời gian tiềm tàng liên quan đến rối loạn
đông máu thời gian tiềm tàng càng dài nguy cơ RLĐM càng cao. Tuy nhiên,
việc xác định thời gian tiềm tàng là rất khó khăn vì rất nhiều trường hợp
không hề có biểu hiện lâm sàng, vô tình phát hiện ra thai chết khi siêu âm
kiểm tra thai hoặc siêu âm vì mục đích khác các triệu chứng khiến thai phụ đi
khám bệnh thường lại là các biểu hiện của dọa sẩy thai như ra máu âm đạo,
đau bụng, hoặc sẩy thai cấp cứu, nhiều trường hợp chỉ mới ra máu âm đạo
một ngày khi rau và thai đã mủn nát. Với những thai trên 22 tuần đánh giá
theo chủ quan của thai phụ (thai không máy, bụng nhỏ đi, vú tiết sữa non)
cũng không hoàn toàn chính xác. Những trường hợp xác định được thời gian
tiềm tàng đều do thai phụ được theo dõi nội trú hoặc ngoại trú khi thai còn

1.6.2.5. Tử vong
Bệnh nhân chết do mất máu và rối loạn đông máu không được xử trí
kịp thời và do nhiễm khuẩn nặng.
1.7. CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ TRÍ THAI CHẾT TRONG TỬ CUNG
1.7.1. Nong cổ tử cung, gắp nạo
Nong cổ tử cung và gắp để xử trí những trường hợp TCL dưới 12 tuần
hoặc những trường hợp TCL có trọng lượng nhỏ gây sẩy không kết quả và
những trường hợp TCL chảy máu, vỡ ối...
1.7.2. Gây chuyển dạ


+ Phương pháp Stein cổ điển [39]:
Tiêm hoặc uống Estrogen 5mg hôm trước.
Ngày hôm sau: uống dầu thầu dầu 30g, tắm nước ấm, quinin 0,lg X 5
viên cách nửa giờ uống một viên.
Posthypophyse 2 đơn vị tiêm dưới da, cách nửa giờ tiêm một lần (tổng
liều 10 đơn vị).
Dần dần phương pháp Stein cũng được các thầy thuốc cải tiến nhiều.
+ Phương pháp Kovacs [40]
Dùng một ống thông Nelaton số 18 có buộc sẵn túi cao su đặt vào
buồng tử cung rồi bơm 500ml dung dịch mặn đẳng trương. Sau 30 phút
truyền nhỏ giọt Post hypophyse trong dung dịch huyết thanh ngọt đẳng
trương. Ngày nay phương pháp này không được sử dụng vì nó có nhiều biến
chứng, nhất là nhiễm khuẩn.
+ Phương pháp xử trí bằng thuốc Prostaglandin:
Prostaglandin tự nhiên gây kích thích cơ tử cung, cơ trơn và làm mềm
CTC [7] nhưng có thể gây một số tác dụng phụ. Để hạn chế tác dụng phụ
người ta đã sử dụng Prostaglandin tổng hợp như Sulprostone. Hai tác giả
Keise và I nWtn ọ983) đã so cánh giữa Sulprostone và Protaglandin tư nhiên
và khẳng định Sulprostone có tác dụng phụ ít hơn Prostaglandin tự nhiên và

Methyl sulphonyllamid (Sulprostone)

Ống

Tiêm bắp

PGE2α 15 Methyl PGE2α (Prostin 15M)

Ống

Tiêm bắp

Vai trò sinh lý của Prostaglandin:
- Làm chín muồi cổ tử cung: Prostaglandin (đặc biệt là PGE2) có vai
trò quan trọng trong việc làm chín muồi cổ tử cung. Theo Szalay và cộng sự
(1989) sau khi làm tăng PGE ở cổ tử cung sẽ làm men collagenase tăng hoạt,
làm tan rã collagen. Ngoài ra Prostaglandin làm thay đổi kết hợp phức hợp
Proteoglycan làm thay đổi tính giữ nước của mô và sự gắn các collagen
(Jhonston và cộng sự 1993) dẫn đến CTC dể dàng xoá và mở [7] .
- Khởi động chuyển dạ: Prostaglandin có thể gây cơn co tử cung và
khởi phát chuyển dạ ở bất kỳ tuổi thai nào. Theo PDR Generic (1996) thì
Misoprostol là một dẫn chất tương tự PGE.có tác dụng gây sẩy thai ở mọi tuổi
thai, Prostaglandin có tác dụng lên các tổ chức liên kết ở cổ tử cung làm cổ tử
cung chín muồi thuận lợi cho cuộc chuyển dạ.
Ngày nay Prostaglandin tổng hợp có nhiều dạng khác nhau và vấn đề
xử trí TCL bằng thuốc Prostaglandin đã có những nghiên cứu áp dụng ở nước
ta đạt hiệu quả tốt.


BVPSTƯ năm 1996 - 1997 áp dụng phác đồ xử trí TCL với Misoprostol

- Mổ bảo tồn tử cung trong trường hợp vỡ tử cung.
- Vết mổ ở tử cung do nhân xơ lớn, sẹo mổ của phẫu thuật Strasmamn...
- Các trường hợp rau tiền đạo bánh rau ngăn đường ra của thai nhi vì vậy
phải mổ lấy thai. Những trường hợp này được hội chẩn chặt chẽ, thường diễn
biến phức tạp hơn.
- Tuy nhiên cũng có những chỉ định tùy theo từng trường hợp cụ thể
không nhất thiết phải phẫu thuật.
1.8. ĐIỂU TRỊ BIẾN CHỨNG
1.8.1. Điều trị rối loạn đông máu (RLĐM)
Theo Lê Thiện Thái khi có RLĐM trong TCL, có biến chứng chảy máu
trước hết phải truyền máu tươi, Fibrinogen, EAC, sau đó giải quyết cho thai
ra càng nhanh càng tốt tiếp theo là kiểm soát tử cung và dùng thuốc co tử
cung [5]. Những trường hợp có SSH dưới 3g/l phải được theo dõi cẩn thận.
Theo Đinh Văn Thắng lượng SSH bình thường trong máu là 3-4g/l, ở
người có thai 4g/l nếu dưới 3g/l là giảm SSH [38].
Tác giả Nguyễn Đức Hinh nghiên cứu tình hình TCL tại BVPSTƯ
trong 2 năm 1994-1995 kết quả SSH giảm dưới 3g/l có tỷ lệ 39% [20].
BVPSTƯ cũng đã có phác đồ xử trí TCL có lượng SSH thay đổi [36].
- Nếu Fibrinogen >2g/l theo phác đồ xử trí TCL.
- Nếu Fibrinogen < 2g/l: dự trù máu, Transamine 500mg X 2 ống/ngày
X3 ngày.
Sau khi chuẩn bị bệnh nhân tốt thì điều trị theo phác đồ xử trí TCL.
1.8.2. Điều trị nhiễm khuẩn
Cũng như nguyên tắc điều trị nhiễm khuẩn trong sản khoa khác.
+ Nếu có điều kiện nên lấy sản dịch làm kháng sinh đồ để chọn kháng
sinh đặc hiệu. Trong lúc chờ đợi kết quả xét nghiệm, cần điều trị kháng sinh



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status