Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở thành phố huế năm 2016 - Pdf 39

ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG


ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU NHÂN HỌC Y TẾ
Tên đề tài:

KHẢO SÁT KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI VÀ CÁC YẾU TỐ
LIÊN QUAN ĐẾN NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ TRONG 6 THÁNG
ĐẦU CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 1 TUỔI Ở THÀNH PHỐ HUẾ
NĂM 2016

NHÓM SINH VIÊN: Lớp YHDP3C – Nhóm: 3
1. Trần Thị Ngọc Ny

5. Đậu Bảo Quốc

2. Trương Thị Oanh

6. Phan Việt Sáng

3. Nguyễn Văn Phú

7. Hoàn Ngọc Thanh

4. Ngô Thị Quí Phương

8. Trần Xuân Thao

1


World Health Organization – Tổ chức y tế thế giới


ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm giúp cho
trẻ phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ. Lợi ích của việc NCBSM
đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia đình và xã hội đã được thừa nhận. Sữa mẹ cung
cấp cho trẻ những chất dinh dưỡng cần thiết, những kháng thể chống bệnh tật giúp
trẻ khoẻ mạnh [1]. Cho trẻ bú mẹ có thể làm giảm tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm
trọng của các bệnh nhiễm trùng và do đó làm giảm nguy cơ tử vong sơ sinh. Theo
ước tính của Qũy Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), bú mẹ trong 6 tháng đầu sẽ
làm giảm 1,3 triệu ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm trên toàn thế giới. Tại
Việt Nam, NCBSM sẽ góp phần làm giảm 13% ca tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi.
Cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm 22%
các ca tử vong sơ sinh tại Việt Nam [2]. Ngoài ra những trẻ được bú mẹ hoàn toàn
và được nuôi bằng sữa mẹ khi trưởng thành có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type
II, béo phì, tăng huyết áp, mắc các bệnh tim mạch, rối loạn lipid máu thấp hơn
nhóm trẻ được nuôi bằng sữa ngoài [3]. Cho con bú không chỉ đem lại nhiều lợi ích
cho bé mà còn tốt cho sức khỏe của mẹ. NCBSMHT trong 6 tháng đầu còn có thể
hạn chế có thai trở lại sớm [4]. Bên cạnh đó, cho bú sớm còn giúp bà mẹ co hồi tử
cung, giảm mất máu sau sinh và NCBSM còn có tác dụng giảm nguy cơ mắc ung
thư vú, ung thư buồng trứng sau này [5]. Nuôi con bằng sữa mẹ làm giảm nguy cơ
loãng xương khi đến thời kì mãn kinh. Ngoài ra, nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ
trong sáu tháng đầu có liên quan đến một phương pháp về kiểm soát sinh đẻ tự
nhiên (98% bảo vệ trong 6 tháng đầu sau khi sinh) [6,7].
NCBSM HT trong sáu tháng đầu đời là rất quan trọng đối với quá trình phát
triển của trẻ. UNICEF đã đưa ra thông điệp truyền thông về việc NCBSM: cho trẻ
bú ngay trong giờ đầu tiên sau khi sinh; cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu,
không uống nước, không ăn sữa bột, không ăn bổ sung; và trẻ càng bú nhiều, mẹ

đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở
Thành phố Huế năm 2016”, với 2 mục tiêu:
1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có con
dưới 1 tuổi ở TP. Huế.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi
con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở TP. Huế.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1. Khái niệm và những hiều biết cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ
1.1 Các khái niệm cơ bản sử dụng trong nghiên cứu
- Sữa đầu bữa: có màu hơi xanh, số lượng nhiều và cung cấp nhiều protein,
-

lactose, nước và các chất dinh dưỡng khác. [11]
Sữa cuối bữa: có màu trắng vì chứa nhiều chất béo hơn sữa đầu bữa. Chất
béo cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ, điều quan trọng là cần để trẻ bú hết

-

sữa cuối, không để trẻ nhả vú sớm quá. [11]
Sữa non: Là loại sữa mẹ đặc biệt, được tiết ra trong vài giờ đầu sau đẻ. Sữa
non sánh đặc, có màu vàng nhạt hoặc trong. Sữa non chứa nhiều protein hơn
sữa trưởng thành. [11]

-

Nuôi con bằng sữa mẹ: là là đứa trẻ được bú mẹ trực tiếp hoặc uống sữa từ



-

[16].
Hiện tượng xuống sữa: là hiện tượng số lượng sữa nhiều hơn làm 2 bầu vú bà

-

mẹ đầy, căng cứng [16].
Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn: được tính bằng tỷ số giữa
số trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn trong 24 giờ trên tổng số trẻ 6

tháng [15].
 Cách ngậm bắt vú đúng của trẻ:
- Tư thế của trẻ:
+ Đầu, thân trẻ nằm trên một đường thẳng
+ Thân trẻ áp sát vào người mẹ
+ Trẻ được đỡ đầu và cổ
+ Mặt trẻ quay vào vú mẹ, mũi trẻ đối diện với núm vú
- Tình trạng vú:
+ Tình trạng tốt
+ Không đau, không khó chịu
+ Các ngón tay đặt xa núm vú để đỡ vú
- Ngậm bắt vú:
+ Quầng vú ở trên miệng trẻ còn nhiều hơn
+ Miệng trẻ mở rộng
+ Môi dưới dướng ra ngoài
+ Cằm trẻ chạm vào vú mẹ
- Bú:
+ Bú chậm, sâu, có lúc ngừng nghỉ

sinh lý [13,16].
Sữa non tuy ít nhưng thỏa mãn được nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh do
lượng protein cao gấp 2-3 lần sữa trưởng thành [13,14]. Hàm lượng kháng thể và
vitamin cao nhất trong sữa non trong vòng 60 phút sau khi sinh sau đó giảm dần.
Như vậy, trẻ được bú sữa non trong những bữa bú đầu tiên là vô cùng quan
trọng. Chúng ta không nên cho trẻ bất cứ thức ăn, nước uống nào trước khi trẻ bắt
đầu bú sữa non.
1.2.2. Sữa trưởng thành
Sữa trưởng thành là sữa mẹ sản xuất ra sau đẻ vài ngày, số lượng sữa nhiều
hơn làm hai bầu vú bà mẹ căng đầy và cứng, người ta gọi đây là hiện tượng sữa về.
Trong sữa mẹ có đủ các chất dinh dưỡng như: Protein, Glucid, Lipid, Vitamin và
khoáng chất đủ cho trẻ phát triển trong 6 tháng đầu. Thành phần các chất dinh
dưỡng ở một tỷ lệ thích hợp và dễ hấp thu đáp ứng với sự phát triển nhanh của trẻ
[14,16]. Sữa mẹ luôn luôn tự nhiên, tinh khiết, sạch sẽ và thay đổi theo thời gian
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng thay đổi của trẻ. Sữa mẹ giúp cho trẻ tránh được
bệnh tật, dị ứng, béo phì và các bệnh tật khác [14,16]. Vì vậy, sữa mẹ là thức ăn
duy nhất mà trẻ nhỏ cần trong 6 tháng đầu.
1.3. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ và lợi ích của việc nuôi con bang
sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
1.3.1. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 6 tháng tuổi
Nhu cầu năng lượng của trẻ đủ tháng, cân nặng lúc sinh bình thường nhìn
chung được đáp ứng hoàn toàn bởi sữa mẹ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ có được
tình trạng dinh dưỡng tốt [14,16].
Việc sản xuất sữa của người mẹ được điều chỉnh phù hợp theo nhu cầu của
trẻ, bà mẹ sinh đôi sinh ba vẫn đủ sữa, khi nhu cầu của trẻ tăng thì việc sản xuất sữa
cũng tăng theo trong vòng vài ngày, thậm chí trong vòng vài giờ [13]. Mức tiêu thụ
sữa mẹ của trẻ bú mẹ hoàn toàn tăng vào khoảng giữa tháng 3 đến tháng thứ 6, nếu
trẻ ăn bổ sung sớm thì lượng này lại giảm đi. Việc tiết sữa là linh hoạt vì vậy bà mẹ
tăng sản xuất sữa thông qua việc vắt sữa thường xuyên, và có khả năng cho bú lại
sau khi đã dừng [13,16].

Trẻ bú mẹ sớm sẽ bú được sữa non rất tốt cho sức khỏe, giúp trẻ phòng tránh
được các bệnh nhiễm khuẩn, dị ứng, vàng da, không dung nạp thức ăn khác [16].


1.3.4. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ tới sức khỏe của trẻ
Sữa mẹ mang lại cả lợi ích ngắn hạn và dài hạn đối với trẻ. Khi đứa trẻ vừa
được sinh ra, sữa mẹ bao gồm các kháng thể và các hoạt chất sinh học khác chính
là yếu tố miễn dịch đầu tiên có trong sữa non giúp trẻ chống lại bệnh tật [16].
Trong khi đó sữa bột không có đủ các yếu tố cần thiết trên. NCBSM là một trong
những thực hành có lợi nhất mà một bà mẹ có thể thực hiện để bảo vệ con mình
khỏi nhiễm khuẩn và vi rút [16]. Sữa mẹ là duy nhất và được sản sinh để đáp ứng
nhu cầu của trẻ. Sữa mẹ thay đổi thành phần để đáp ứng nhu cầu thay đổi của trẻ
trong các cữ bú. Khi đứa trẻ lớn lên, các thành phần của sữa mẹ cũng thay đổi để
đáp ứng những nhu cầu của trẻ đang lớn, điều mà các sản phẩm thay thế sữa mẹ
không có được. Những trẻ được bú mẹ ít phải đến bệnh viện hơn hoặc ít phải uống
thuốc, giảm nguy cơ lây nhiễm và mắc các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi, hen
suyễn, nhiễm trùng tai, nhiễm khuẩn đường hô hấp [16]. Kết quả phân tích từ 7
nghiên cứu thuần tập của Bachrach và cộng sự cho thấy rằng trẻ được nuôi bằng
sữa công thức phải đối mặt với mối nguy nhập viện do nhiễm trùng đường hô hấp
dưới trong năm đầu tiên của cuộc sống cao gấp 3,6 lần so với trẻ được bú mẹ hoàn
toàn hơn 4 tháng. Phần lớn các ca nhập viện hô hấp cho trẻ sơ sinh là kết quả của
nhiễm Vi rút Hợp bào Hô hấp - Respiratory Syncytial Virus (RSV). Chất béo trong
sữa mẹ có tác dụng kháng virus: chống lại RSV [19, 26].
Ngoài ra, việc trẻ không được bú mẹ sẽ làm tăng nguy cơ béo phì, đái tháo
đường type I và II cũng như bệnh tăng huyết áp và tim mạch. Nghiên cứu của
Christopher G. Owen và cộng sự chỉ ra rằng những đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ
có nguy cơ bị béo phì khi trưởng thành chỉ bằng 0,87 lần so với những đứa trẻ được
nuôi bằng sữa công thức [24]. Những đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ
mắc tiểu đường type II chỉ bằng 0,61 lần so với những đứa trẻ được nuôi bằng sữa
công thức [25]. NCBSM làm tăng chỉ số thông minh và cải thiện kết quả học tập

Tại Việt Nam, nếu các bà mẹ NCBSMHT trong 6 tháng đầu họ có thể tiết
kiệm một khoản tiền tương đương 11.435.670.000.000 đồng từ việc không chi tiêu
cho các sản phẩm thay thế sữa mẹ. Tuy nhiên, một nửa của khoản tiền này đang bị
lãng phí do tỷ lệ NCBSMHT thấp ở Việt Nam, điều này làm tăng chi phí y tế chung


của quốc gia. Mỗi năm, Việt Nam phải chi khoảng 208.300.000.000 đồng cho
khám chữa các bệnh do nuôi dưỡng trẻ nhỏ kém [17]. Bên cạnh lợi ích kinh tế
mang lại cho gia đình NCBSMHT còn có lợi cho doanh nghiệp về mặt lâu dài vì
các bà mẹ ít phải nghỉ làm để chăm con ốm, điều này cũng có nghĩa là tạo ra một
lực lượng lao động ổn định [20]. Sữa mẹ cũng là một nguồn lực hữu ích đảm bảo
an ninh thực phẩm cho trẻ nhỏ và các gia đình trên toàn thế giới khi có thiên tai
hoặc khủng hoảng kinh tế. Trong những trường hợp nguy cấp, NCBSM giúp bảo vệ
trẻ khỏi các bệnh gây ra do nguồn nước nhiễm bẩn và có thể ngăn ngừa tình trạng
thân nhiệt thấp [21].
2. Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới và Việt Nam
2.1 Trên thế giới
Lợi ích và sự cần thiết của NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia đình
và xã hội đã được thừa nhận. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới tỷ lệ cho con bú
sớm rất thấp: 17% ở các nước Đông Âu-Trung Á, 33% ở các nước châu Á Thái
Bình Dương và cao nhất là khu vực Mỹ La Tinh- Caribe -Bắc và Đông Phi là 50%
[31]. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên thế giới là 39% và
không đồng đều giữa các quốc gia [34], như vậy phần lớn số trẻ còn lại được nuôi
bằng các thức ăn hoặc nước uống khác ngoài sữa mẹ ngay từ những tháng đầu.
Theo số liệu từ 64 nước đang phát triển chiếm 69% số trẻ em được sinh ra
trên toàn thế giới từ năm 1996-2006, tỷ lệ trẻ em được bú mẹ hoàn toàn trong 6
tháng đầu tăng từ 33% lên 37%. Tăng nhanh nhất ở vùng cận sa mạc Sahara-châu
Phi với tỷ lệ tăng từ 22% -30%, và châu Âu với tỷ lệ tăng từ 10% -19%. Ở châu Mỹ
Latinh và Caribean ngoại trừ Brazil và Mexico, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn tăng
từ 30% đến 45% [14,30].

dịch vụ chăm sóc và điều trị thường ngày. Ngoài ra tỷ lệ tử vong ở trẻ miền núi,
nông thôn và gia đình nghèo vẫn cao hơn 3-4 lần so với miền xuôi, thành thị và các
gia đình khá giả khác. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, vấn đề tử vong ở trẻ liên
quan đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh cũng như NCBSM. Tỷ lệ trẻ em bú sữa mẹ còn


thấp, chỉ khoảng 58% trẻ sơ sinh được bú sữa mẹ trong giờ đầu và 17% trẻ được bú
mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. [37]
Thực tế cho thấy trước nhiều thông tin quảng cáo về các chất bổ sung vào
sữa bột giúp trẻ phát triển tốt về cân nặng và chiều cao, thông minh cùng với nhận
thức chưa đúng của một số bà mẹ trẻ, gia đình khiến nhiều bà cho rằng sữa công
thức có thể thay thế được sữa mẹ, thậm chí tốt hơn sữa mẹ. Kiến thức về nuôi
dưỡng trẻ nhỏ của người dân bị ảnh hưởng bởi niềm tin, thói quen của cộng đồng
và lời khuyên của cán Bộ y tế..
Báo cáo của UNICEFF cũng chỉ ra rằng, các bà mẹ làm việc ở bên ngoài
thường gặp khó khăn trong việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu. Họ đi làm và cho
trẻ ăn bổ sung sau khi hết thời gian nghỉ đẻ thường là 4 tháng. Trong Luật Lao
động Việt Nam có quy định về nghỉ đẻ và NCBSM. Tuy nhiên, trên thực tế Luật
Lao động chỉ áp dụng cho phụ nữ làm việc ở cơ quan tổ chức chính thống. Hơn
nữa, nhiều bà mẹ đi làm ở khu vực thành thị có khả năng mua sữa bột và thương
xuyên bị tiếp xúc với các hình thức quảng cáo về sản phẩm thay thế sữa mẹ. Các
sản phẩm thay thế sữa mẹ xuất hiện nhiều ở các bệnh viện và rất ít nhân viên y tế
nhận thức về lợi ích của việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ.
Nhân viên y tế cũng chịu ảnh hưởng từ các công ty sữa, và chỉ cần thanh
kiểm tra ở mức hạn chế cũng đã phát hiện nhiều vi phạm Luật quảng cáo sản phẩm
thay thế sữa mẹ của Chính phủ trong năm 2007.
Nội dung nuôi dưỡng trẻ nhỏ được xây dựng dựa trên cơ sở kết luận và
khuyến nghị của các chuyên gia hàng đầu về dinh dưỡng, với mục tiêu chủ yếu là
bảo vệ, khuyến khích và hỗ trợ NCBSMHT trong 6 tháng đầu cho trẻ ăn bổ sung
hoàn toàn, hợp lý và tiếp tục cho con bú tới 2 tuổi hoặc nhiều hơn.

Theo một nghiên cứu năm 2013 tại Los Angeles, Mỹ: có gần 28% bà mẹ
ngừng cho con bú khi được 3 tháng, dừng lại bởi vì họ đã gặp khó khăn khi nuôi
dưỡng em bé, 32,3% cho rằng sữa mẹ một mình không đáp ứng các em bé, 33,0%


cho rằng họ không có đủ sữa cho con bú, và 14,3% nói rằng họ bị nứt, đau hoặc
chảy máu núm vú khi cho con bú [38].
Theo báo cáo “Chăm sóc Mẹ & Con Philips - triển vọng toàn cầu cho con
bú năm 2011”, tại các nước Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi, Ai Cập, các rào cản
chính dừng cho trẻ bú khi đang ở nhà là lượng sữa cung cấp giảm, việc cho trẻ bú
khiến bà mẹ bị đau núm vú, thiếu thời gian cần thiết cho con bú, phải quay trở lại
làm việc, tâm lý e ngại khi phải cho con bú bên ngoài nhà, không có thời gian cho
con bú suốt cả ngày. Tính trung bình có 40% bà mẹ cảm thấy rằng lượng cung ứng
sữa của họ giảm, tỷ lệ này ở các nước phát triển như Mỹ là 70% và Trung Quốc
58%, trái ngược với Nam Phi 9% và Ai Cập 17%. Lý do quan trọng khác là đau
núm vú khi cho ăn (15%), đặc biệt là trong ba tháng đầu tiên. Có 7% bà mẹ trong
nghiên cứu cho con bú sữa bằng bình. Lý do nổi bật khác bao gồm sự cần thiết phải
trở lại làm việc (10%) và cảm thấy lúng túng cho con bú bên ngoài nhà (9%).
Trong nghiên cứu này có 28% phụ nữ lấy lý do đi làm lại để dừng việc cho con bú.
Các lý do dẫn tới việc này là tại nơi làm việc không có cơ sở vật chất tốt để vắt sữa,
xấu hổ khi vắt sữa tại nơi làm việc [39].
Theo trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của Hoa Kỳ, hầu hết
phụ nữ ở Hoa Kỳ nhận thức được rằng con bú sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất
cho trẻ sơ sinh, nhưng thường họ không được hướng dẫn về lợi ích cụ thể của nó và
các rủi ro liên quan nếu không cho con bú. Các cán bộ y tế thường nhận được ít đào
tạo, và nhiều người cảm thấy không tự tin để cung cấp thông tin hữu ích, chính xác
để hỗ trợ bệnh nhân của họ. Bên cạnh đó là những rào cản về kỹ thuật cho con bú
và việc kết hợp cho con bú và làm việc [40].
Yếu tố môi trường xã hội cũng ảnh hưởng tới cho con bú. Tại Hoa Kỳ, bú
bình là vấn đề bình thường hoặc thích hợp để nuôi một trẻ sơ sinh. Nhận thức và

người dân tin rằng bà mẹ có thể đủ sữa cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng, trong
khi đó lại tin tưởng vào việc cho ăn bổ sung sớm sẽ làm cho trẻ cứng cáp.


Có 4 khó khăn được nêu ra làm cản trở việc NCBSMHT. Theo nghiên cứu
của Lưu Ngọc Hoạt, những khó khăn cản trở NCBSMHT trong 6 tháng đầu là: mẹ
phải đi làm sớm, mẹ thiếu sữa, bà mẹ cần sự hổ trợ của người thân để có thời gian
nghỉ ngơi, điều kiện kinh tế tốt [44]. Khó khăn mẹ thiếu sữa có lẽ là vấn đề của
nhiều địa phương chứ không riêng gì của mẫu nghiên cứu. Người thân có vai trò rất
lớn trong việc hỗ trợ bà mẹ và đặc biệt là có tác động lớn đến quyết định nuôi
dưỡng trẻ nhỏ của bà mẹ.
Bà mẹ không vắt sữa cho con bú khi đi làm nên phải tập cho con bú sữa bột.
Nguyên nhân không tin tưởng sự an toàn của sữa vắt cũng được ghi nhận trong báo
cáo của A&T, Chỉ có 5,1% số người tham gia nghiên cứu đồng ý rằng vắt và bảo
quản sữa mẹ trong tủ lạnh dưới 3 ngày vẫn an toàn. Niềm tin này khiến 63% bà mẹ
đồng ý rằng nếu bà mẹ đi làm sớm thì trẻ phải bú sữa bột [45]. Có lẽ thông tin và
hướng dẫn bảo quản sữa vắt chưa đến được nhiều bà mẹ. Vấn đề này cũng còn chịu
tác động của yếu tố văn hóa khi có quan niệm rằng việc trữ đồ ăn trong tủ lạnh sẽ
làm mất ngon và mất chất. Một vấn đề cần được ghi nhận nữa là việc vắt sữa mẹ
không được thuận tiện. Có lẽ với quảng cáo sữa bột được cho là ưu việt như hiện
nay thì bà mẹ dễ dàng chọn lựa sữa bột cho con.
Nhìn chung, các rào cản khi NCBSM trên thế giới cũng như tại Việt Nam là
rào cản từ cá nhân bà mẹ, những người thân xung quanh, chất lượng dịch vụ chăm
sóc bà mẹ và các yếu tố từ môi trường.
4. Những nghiên cứu trước đây về nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu
4.1. Trên thế giới
Từ lâu NCBSM đã được sự quan tâm ở nhiều nước trên thế giới.
Năm 1979 trong một nghiên cứu của Annie Cherian về thái độ thực hành cho
trẻ ăn ở Zaria, Nigeria cho thấy hầu như tất cả các đứa trẻ đều được bú ngay sau
sinh, 34% các bà mẹ tin tưởng vào sữa của mình, tuy nhiên có một tỷ lệ nhỏ các bà


cả 3 vùng trên tương ứng là 96,5%, 96,8% và 97,4% [52]. Một nghiên cứu khác đã
so sánh NCBSM giữa những năm 1994-1996 và 2003-2004 ở một vùng thuộc Tây
Bắc của Trung Quốc cho thấy trong tháng đầu tỷ lệ NCBSM năm 2003-2004 giảm
hơn so với năm 1994-1995. Tỷ lệ NCBSMHT ban đầu cao, nhưng sau 3 tháng thì tỉ
lệ này giảm hơn rõ rệt. Mục tiêu quốc gia của Trung Quốc về NCBSM đều không
đạt được trong cả hai giai đoạn nghiên cứu [49].
4.2. Tại Việt Nam
Nghiên cứu của tác giả Phạm Văn Hoan, Vũ Quang Huy và Erika Lutz về
thực hành nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới 24 tháng tuổi tại một số xã thuộc 6 tỉnh
dự án IFEN II Hội Chữ thập đỏ Việt Nam năm 2005 và xã Dân Hòa tỉnh Hà Tây
năm 2006 cho thấy: tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh tại cảc
tỉnh dự án cũng khá chênh lệch nhau: Nghệ An (21,8%), Hà Tĩnh (62,3%), Quảng
13 Bình (72,7%), Quảng Ngãi (38,2%), Điện Biên (48,1%), Lai Châu (32,1%) và tỷ
lệ chung của 6 tỉnh là 45,8%, riêng kết quả điều tra ở Hà Tây năm 2006 là 69,4%.
Tỷ lệ trẻ được bú hoàn toàn sữa mẹ tại 6 tỉnh dự án 45,5%, trong khi ở Hà Tây nơi
không có dự án là 38,5%. Tuy nhiên đây vẫn chưa phải là tỷ lệ mong muốn theo
khuyến nghị của WHO và UNICEF. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
hầu như 100% bà mẹ tiếp tục cho con bú kéo dài 6-11 tháng và 12-17 tháng [57].
Năm 2006, tác giả Đinh Thị Phương Hòa tiến hành nghiên cứu tại 4 bệnh
viện ở Hà Nội cho thấy tỷ lệ bà mẹ biết và thực hành cho con bú trong vòng 1 giờ
sau sinh chỉ là 44,1%, có 78,3% bà mẹ biết về sữa non và 64% bà mẹ thực hành
cho con bú sữa non trong vài ngày sau sinh [56]. Bên cạnh đó việc ăn dặm của trẻ
là phổ biến trong 6 tháng đầu tăng từ 16,4% vào tuần 1 lên 56,5% lúc 16 tuần và
gần 100% ở tuần 24. Nghiên cứu của Lê Thị Hương và Đỗ Hữu Hanh tại Yên Bái
năm 2008 cho thấy tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm trong vòng 30 phút đầu sau sinh
khá cao (gần 90%). Tuy nhiên trẻ được bú mẹ hoàn toàn đến 4 tháng chỉ dao động
từ 17,8% đến 23% và 6 tháng là 18,3% đến 19,8% [60]. Cũng vào năm 2008, một



có 47,5% bà mẹ cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh. Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ dùng
thức ăn hoặc đồ uống khác trước khi cho bú lần đầu là 22,5% [63].
Một nghiên cứu khác của tác giả Trần Thị Phúc Nguyệt và cộng sự thực hiện
tại xã Khánh Hà, huyện Thường Tín, Hà Nội năm 2012 trên 220 bà mẹ có con dưới
24 tháng tuổi. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn bà mẹ bằng bộ câu hỏi thiết
kế sẵn. Kết quả cho thấy có 42,3% các bà mẹ cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu
sau sinh. Thức ăn/ đồ uống trước khi cho bú lần đầu bao gồm sữa bột (86,6%), sữa
bò (10%) và nước đường (3,4%). Tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho con bú
lần đầu tiên là 10%. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 15,5%.
Trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn vì mẹ không đủ sữa (61,3%) và mẹ
phải đi làm (57,5%) [62].
Cũng trong năm 2012, tác giả Huỳnh Văn Dũng, Huỳnh Nam Phương và
cộng sự đã thực hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 370 trẻ dưới 24 tháng tuổi và
các bà mẹ của trẻ ở huyện Tam Nông, Phú Thọ nhằm mục tiêu mô tả thực trạng
dinh dưỡng và đánh giá thực hành nuôi tò của bà mẹ theo các chỉ số IYCF-2010.
Ket quả nghiên cứu cho thấy: có 94,3% trẻ đã và đang được bú mẹ; 46,7% trẻ được
15 bú ngay trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, 27,8% trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú sữa
mẹ hoàn toàn; tại thời điểm 1 tuổi có 60,6% trẻ tiếp tục còn được bú sữa mẹ, tại
thời điểm 2 tuổi có 11,1% trẻ tiếp tục còn được bú sữa mẹ; và tỷ lệ trẻ được cho ăn
bổ sung đúng thời điểm là 65,2% [55].
5. Một số đặc điểm của địa bàn nghiên cứu ( thành phố Huế )
5.1 .Vị trí địa lý
Thành phố Huế nằm ở toạ độ địa lý 16-16,80 vĩ Bắc và 107,8-108,20 kinh
Đông. phía Bắc và phía Tây giáp thị xã Hương Trà, phía Nam giáp thị xã Hương
Thuỷ, phía Đông giáp thị xã Hương Thuỷ và huyện Phú Vang. Tọa lạc hai bên bờ
hạ lưu sông Hương, về phía Bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng 101 km, cách biển


Thuận An 14 km, cách sân bay quốc tế Phú Bài 14 km và cách Cảng nước sâu
Chân Mây 50 km.




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status