Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm - Pdf 41

Header Page 1 of 166.

LUẬN VĂN:

Phương hướng hoàn thiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về phiên
tòa sơ thẩm

Footer Page 1 of 166.


Header Page 2 of 166.

mở đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) nói riêng là một nhu cầu khách quan
nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự đang ngày càng gia
tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng loại vụ việc. Quá trình xây
dựng và hoàn thiện pháp luật TTDS nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, đảm
bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và
đúng pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 ra đời thay thế các Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động (PLTTGQCTCLĐ) 1996 là bước phát triển có tính bước ngoặt đối với ngành luật
TTDS Việt Nam. Bộ luật này quy định khá đầy đủ và toàn diện các nguyên tắc cơ bản
trong TTDS; trình tự thủ tục khởi kiện các vụ án dân sự; trình tự thủ tục giải quyết các
vụ việc dân sự tại Tòa án, thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
các cơ quan và người tiến hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể

"Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Hoài Nam;
Luận văn thạc sĩ "Các cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Thị Hà; Luận
văn thạc sĩ "Thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - Cơ sở lý luận và thực
tiễn" của Nguyễn Thị Thu Hà...
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu các quy
định về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo quy định của BLTTDS mà không nghiên cứu vấn
đề này đối với việc dân sự. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu một số quan điểm trong các
Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 về cải cách tư pháp với mục đích làm sáng tỏ trọng tâm
nghiên cứu của đề tài.

Footer Page 3 of 166.


Header Page 4 of 166.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo tinh thần
cải cách tư pháp. Từ đó nhiệm vụ của đề tài là giải quyết về mặt lý luận các khái niệm
thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như các vấn đề có liên quan. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành, nêu lên thực trạng của việc áp dụng
luật trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự tại phiên tòa sơ thẩm. Trên cơ sở
đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp
luật TTDS về phiên tòa sơ thẩm.

thỏa thuận trong quan hệ pháp luật dân sự mà chưa cần sự can thiệp của một chủ thể thứ
ba. Khi các chủ thể không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và
yêu cầu tòa án giải quyết thì tranh chấp đó được giải quyết thông qua con đường tòa án
và tranh chấp đó được gọi là vụ án dân sự.
Vụ án dân sự bao gồm các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà các chủ thể không tự thỏa
thuận được buộc phải khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết. Việc đương sự khởi kiện yêu
cầu tòa án giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự là sự kiện làm phát sinh tố
tụng phiên tòa. Hay nói cách khác, "tranh chấp dân sự" kết hợp với yếu tố "kiện" của
đương sự là tiền đề để tòa án mở phiên tòa xét xử. Ngoài yếu tố "kiện" là bản chất của

Footer Page 5 of 166.


Header Page 6 of 166.

vụ án dân sự, yếu tố chủ thể là nguyên đơn, bị đơn cũng là đặc trưng của loại tố tụng xét
xử sơ thẩm dân sự. Vụ án dân sự được BLTTDS quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 ở
trong các lĩnh vực như dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
bao gồm:
* Những tranh chấp dân sự truyền thống:
- Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
- Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
- Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp
các bên tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp về thừa kế tài sản.
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của
pháp luật về đất đai.

mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà
nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hòa giải không thành hoặc
không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây không
nhất thiết phải qua hòa giải tại cơ sở:
+ Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động.
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về
trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động.
+ Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động.
+ Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật lao động.
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao
động.

Footer Page 7 of 166.


Header Page 8 of 166.

- Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động
đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết
mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội
đồng trọng tài lao động, bao gồm:
+ Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều
kiện khác.
+ Về thực hiện thỏa ước lao động tập thể.
+ Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
- Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Ngoài khái niệm vụ án dân sự, BLTTDS còn phân biệt một loại việc cũng thuộc
thẩm quyền giải quyết của tòa án đó là việc dân sự.
Việc dân sự là các loại việc trong đó các chủ thể không có tranh chấp về quyền

ly hôn.
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về hôn
nhân và gia đình của tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về
hôn nhân và gia đình của tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại:
- Yêu cầu liên quan đến Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh
chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh
doanh, thương mại của tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định
kinh doanh, thương mại của tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt
Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài
- Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.

Footer Page 9 of 166.


Header Page 10 of 166.

* Những yêu cầu về lao động:
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định lao động
của tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định lao động của tòa
án nước ngoài.
- Các yêu cầu khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Như vậy, vụ án dân sự mới là sự kiện làm phát sinh tố tụng phiên tòa xét xử, do
đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự.

con đường hòa giải đồng nghĩa với việc các đương sự không thể tự giải quyết được
tranh chấp của họ, khi đó vai trò giải quyết nội dung tranh chấp thuộc về tòa án thông
qua việc xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
phụ thuộc vào phán quyết của tòa án dựa trên cơ sở xem xét, đánh giá chứng cứ, kết quả
của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa cũng như hoạt động áp dụng pháp luật của Hội
đồng xét xử. Nếu trong quá trình hòa giải, tòa án chỉ giải quyết những vấn đề thuộc
phạm vi tranh chấp giữa các đương sự thì việc xét xử tại phiên tòa phải xem xét toàn bộ
các vấn đề của vụ án. Ngoài việc xác định nội dung quyền và nghĩa vụ dân sự cho các
bên đương sự, tòa án còn giải quyết các vấn đề khác liên quan đến vụ án.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm dân sự
Theo quyển sổ tay pháp lý thông dụng, thuật ngữ "phiên tòa" có nghĩa là "nơi
diễn ra hoạt động xét xử của tòa án nhân dân" [14, tr. 270]. Theo Từ điển Tiếng Việt
thì "sơ thẩm" có nghĩa là việc "xét xử một vụ án với tư cách là tòa án ở cấp xét xử thấp
nhất" [38, tr. 869], còn Từ điển Luật học thì định nghĩa "sơ thẩm" là "lần đầu tiên đưa
ra xét xử vụ án tại một tòa án có thẩm quyền" [37, tr. 434]. Các khái niệm trên đã xác
định được một vài đặc trưng của phiên tòa sơ thẩm nói chung cũng như phiên tòa sơ
thẩm dân sự nói riêng, tuy nhiên còn phiến diện và chưa phản ánh được đầy đủ bản chất
của phiên tòa sơ thẩm dân sự.
Chế định phiên tòa sơ thẩm dân sự bao gồm các quy định về trình tự, thủ tục tại
phiên tòa sơ thẩm. Sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết yêu cầu của đương
sự, nếu vụ án buộc phải đưa ra xét xử thì tòa án mở phiên tòa sơ thẩm để giải quyết
tranh chấp giữa các bên. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự có mặt đầy đủ những người tiến

Footer Page 11 of 166.


Header Page 12 of 166.

hành tố tụng, các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Mọi hoạt động
tại phiên tòa được tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định. Các chủ thể tham gia phiên


vụ án (phiên tòa phúc thẩm chỉ có mặt những người có liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị); bản án, quyết định tại phiên tòa sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị…
Ngoài ra, phiên tòa sơ thẩm dân sự có đặc điểm sau:
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là nơi diễn ra các hoạt động tố tụng của riêng cơ quan
xét xử trên cơ sở đơn khởi kiện của đương sự yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp dân sự.
Nếu như việc mở phiên tòa sơ thẩm hình sự là kết quả của quá trình điều tra, truy tố thì
việc mở phiên tòa sơ dân sự lại xuất phát từ ý chí của các bên đương sự sau khi vụ án
không giải quyết được thông qua việc hòa giải.
Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, thứ tự hỏi và trình tự phát biểu khi tranh luận đề
cao vai trò, vị trí của các bên đương sự. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa dân sự (nếu
có) không có vai trò như trong phiên tòa hình sự, họ chỉ tham gia với tư cách là người
giám sát hoạt động xét xử của tòa án mà không can thiệp vào nội dung tranh chấp của
các đương sự. Vị trí, vai trò của các đương sự tại phiên tòa thể hiện xu hướng dân chủ
trong hoạt động tư pháp, tôn trọng quyền yêu cầu và tự định đoạt của họ trong quá trình
xét xử. ý chí và sự tự nguyện của các đương sự luôn được tôn trọng và xem xét trước
tiên. Quyết định tại phiên tòa là sự phán xét của tòa án nhưng có thể đơn giản là ghi
nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự không nhất thiết phải bằng một bản án
được tuyên tại phiên tòa. Nếu như phiên tòa xét xử vụ án hình sự luôn kết thúc bằng bản
án của tòa án kết án một người phạm một tội cụ thể và hình phạt kèm theo (trừ trường
hợp được miễn hình phạt) hoặc tuyên bố người đó vô tội thì diễn biến và kết quả của
phiên tòa sơ thẩm dân sự còn tùy thuộc vào quyền quyết định và tự định đoạt của đương
sự trong quá trình diễn ra phiên tòa. Phiên tòa sơ thẩm có thể kết thúc bằng một bản án
hoặc cũng có thể kết thúc bằng một quyết định ngay sau khi đương sự rút yêu cầu hoặc
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
1.1.4. Vị trí và ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự

Footer Page 13 of 166.


quyết của tòa án phụ thuộc vào diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nhất là phần trình bày,

Footer Page 14 of 166.


Header Page 15 of 166.

tranh luận, xem xét, đánh giá chứng cứ và quan điểm của các bên đương sự. Dần dần
xóa bỏ tình trạng "án bỏ túi", án được duyệt sẵn, việc phán xét ở phiên tòa bị áp đặt,
không khách quan và thiếu sức thuyết phục, làm cho hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ
thẩm mất đi vai trò đích thực của nó. Phiên tòa sơ thẩm dân sự phải là "nơi nói lên tiếng
nói của công lý, nói lên sự xác nhận của luật pháp đối với vụ án đã xảy ra và thái độ
của luật pháp với việc đã xảy ra như thế nào. Tòa án nói lên những nhận định và quyết
định của mình là nhân danh Nhà nước như chúng ta thường ghi trong bản án" [24]
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Nhiệm vụ đó được thực hiện thông qua hoạt động xét xử
của tòa án, để thực hiện được nhiệm vụ đó "trong công tác xử án phải công bằng, liêm
khiết, trong sạch [12, tr. 188]. Phiên tòa sơ thẩm dân sự là "nơi phản ảnh đầy đủ và sâu
sắc nhất bản chất của một nền công lý, biểu hiện tập trung của quyền tư pháp" [20, tr.
3], nó có ý nghĩa cả về mặt pháp luật cũng như về mặt chính trị - xã hội.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự trước hết phản ánh rõ chức năng xét xử của tòa án.
Kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự là sự thể hiện cụ thể vai trò, nhiệm vụ của tòa án
trong việc duy trì trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giúp cho các quan
hệ dân sự phát triển ổn định và lành mạnh, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp
của các cá nhân, tổ chức.
Bản án, quyết định tại phiên tòa sơ thẩm khi có hiệu lực pháp luật phải được
mọi chủ thể trong xã hội tôn trọng, các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành phải
nghiêm chỉnh chấp hành. Nội dung bản án, quyết định xác định quyền và nghĩa vụ cho
các bên đương sự và có giá trị pháp lý làm cơ sở cho việc thi hành án, từ đó khôi phục
lại các quyền và lợi ích của các đương sự.


tốt

thì kết quả của công tác giáo dục sẽ bị hạn chế, gây ảnh hưởng
xấu, làm cho mọi người thiếu tin tưởng vào hoạt động xét xử của tòa án [34,
tr. 266-267].
Ngoài ra, phiên tòa sơ thẩm dân sự là nơi công dân thực hiện quyền tự do dân
chủ nói chung cũng như các quyền và nghĩa vụ trong pháp luật tố tụng nói riêng, thể
hiện sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, quyền được bào chữa, biện hộ,
quyền được dùng chữ viết tiếng nói của dân tộc mình… khẳng định quyền dân chủ của
công dân trong lĩnh vực tư pháp, khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
1.2. Những nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của phiên tòa sơ thẩm dân sự
Khi Tòa án mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, mọi vấn đề của vụ án
đều được đưa ra xem xét, đánh giá để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đương
sự. Vì vậy, hoạt động tố tụng tại phiên tòa phải đáp ứng các nguyên tắc của pháp luật tố
tụng nói chung cũng như các nguyên tắc của pháp luật TTDS nói riêng.
1.2.1. Những nguyên tắc chung
Nguyên tắc chung là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo có giá trị cho cả phiên tòa
sơ thẩm hình sự và phi hình sự. Việc mở phiên tòa sơ thẩm dân sự trước hết phải đảm
bảo yêu cầu của các nguyên tắc chung sau đây:
1. Nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự.
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 129 Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ sung
năm 2001), Điều 4 Luật tổ chức TAND 2002 và tiếp tục được khẳng định tại Điều 11
BLTTDS 2004. Sự tham gia của hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử
nhằm tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tư pháp, đảm bảo tính khách quan, chính

Footer Page 16 of 166.


Header Page 17 of 166.



Header Page 18 of 166.

5. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.
Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 52
Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001), Điều 8 Luật tổ chức TAND 2002.
BLTTDS 2004 tiếp tục khẳng định nguyên tắc này tại Điều 8: Bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ trong TTDS. Theo nguyên tắc này, các đương sự khi tham gia tố tụng bình
đẳng với nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS. Tòa án có trách nhiệm
đảm bảo cho các đương sự thực sự bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ tố tụng đó. Nguyên tắc này là cơ sở để đương sự tiến hành hoạt động chứng
minh cũng như tranh tụng tại phiên tòa.
6. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đây là nguyên tắc có tính chất bao trùm, thể hiện tư tưởng chỉ đạo và có ý nghĩa
đối với mọi quan hệ pháp luật nói chung cũng như quan hệ pháp luật TTDS nói riêng.
Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia
tố tụng phải tuân thủ những trình tự, thủ tục và thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng
theo đúng quy định của BLTTDS. Việc vi phạm tố tụng tại phiên tòa ảnh hưởng đến
chất lượng giải quyết vụ án, thậm chí bản án, quyết định tại phiên tòa có thể bị hủy để
xét xử lại từ đầu.
1.2.2. Một số nguyên tắc đặc trưng điều chỉnh riêng biệt hoạt động tố tụng
tại phiên tòa sơ thẩm dân sự
Các nguyên tắc đặc trưng điều chỉnh riêng biệt hoạt động tố tụng tại phiên tòa
dân sự là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, chi phối trực tiếp mọi hoạt động xét xử của
tòa án tại phiên tòa. Ngoài việc đảm bảo các nguyên tắc chung, phiên tòa sơ thẩm dân
sự còn phải tuân thủ các nguyên tắc như sau:
1. Nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: (Điều 4
BLTTDS)
Nguyên tắc này được thể hiện như sau:

trọng sự thỏa thuận của họ và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
3. Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự (Điều 10 BLTTDS).

Footer Page 19 of 166.


Header Page 20 of 166.

Hòa giải trong TTDS cũng là một trong những nguyên tắc đặc trưng của TTDS.
Theo nguyên tắc này, tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, Hội đồng xét xử có phải hỏi các
đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không, Hội đồng xét xử
có trách nhiệm hướng dẫn và tạo điều kiện cho các đương sự trong quá trình hòa giải,
đồng thời đảm bảo cho việc hòa giải dựa trên cơ sở tự nguyện và đúng pháp luật.
4. Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS.
Khi đương sự đưa ra yêu cầu, đề nghị để tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình thì đồng thời có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu,
đề nghị của mình là có căn cứ. Bởi vì, việc xảy ra tranh chấp là việc của bản thân các
bên đương sự, mặt khác chỉ các đương sự mới nắm được bản chất của nội dung tranh
chấp. Chính vì vậy, không ai ngoài các đương sự thực hiện trách nhiệm cung cấp chứng
cứ chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc phản bác yêu cầu của phía bên kia. Trường
hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức đưa ra yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác thì họ cũng có trách nhiệm chứng minh cho đương sự. Việc bổ sung
chứng cứ tại phiên tòa tạo điều kiện tối đa để các đương sự chứng minh cho yêu cầu, đề
nghị của mình, đồng thời giúp cho tòa án có cơ sở để xác định chính xác quyền và nghĩa
vụ dân sự cho các bên đương sự.
Nguyên tắc này còn đòi hỏi tòa án phải tôn trọng các tài liệu, chứng cứ do
đương sự cung cấp. Tòa án không được tự ý đi thu thập chứng cứ khi đương sự không
yêu cầu. Đương sự cung cấp chứng cứ đến đâu, tòa án xem xét đến đó. Tòa án phải có
trách nhiệm thông báo và tạo điều kiện cho các đương sự biết và sao chép tài liệu,
chứng cứ của phía bên kia. Các đương sự phải chịu hậu quả của việc không giao nộp

được trình tự xét xử tại phiên tòa:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ bảo đảm việc xét hỏi, tranh luận và
giữ gìn trật tự tại phiên tòa. Hội đồng xử án có nhiệm vụ quyết định mọi vấn đề về nội
dung cũng như về thủ tục tố tụng trong phiên tòa. Đối với những vấn đề đơn giản không
cần phải thảo luận lâu thì Hội đồng xử án trao đổi và quyết định ngay tại phiên tòa,
nhưng nếu việc trao đổi đòi hỏi mất nhiều thời gian, hoặc trao đổi để nghị án thì Hội đồng
xử án phải vào phòng nghị án.
Văn bản có ý nghĩa quan trọng nhất về phiên tòa sơ thẩm dân sự trong thời kỳ
này là Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông tư số 96
ngày 8/2/1977 của TANDTC. Đây là văn bản quy định các bước tiến hành tại phiên tòa
xét xử như một chỉnh thể, nếu bỏ qua mặt hình thức của nó thì Bản hướng dẫn này được
coi là một chế định quy định đầy đủ trình tự, thủ tục xét xử vụ kiện dân sự tại phiên tòa
sơ thẩm. Theo Bản hướng dẫn này, việc tiến hành phiên tòa về dân sự phải tuần tự theo
các bước sau:
1. Bước chuẩn bị cho việc xét hỏi bao gồm các thủ tục: Khai mạc phiên tòa; hỏi
căn cước của những người được triệu tập và giải quyết vấn đề những người vắng mặt;

Footer Page 23 of 166.


Header Page 24 of 166.

phổ biến những quyền của những người tham gia tố tụng và giải quyết những vấn đề
cần thiết để chuẩn bị cho việc xét hỏi; xác định nhiệm vụ của nhân chứng, của giám
định viên, của người phiên dịch.
2. Bước giải quyết nội dung chính của phiên tòa gồm các thủ tục: Xét hỏi; tranh
luận; nghị án và tuyên án.
3. Những việc phải làm sau phiên tòa gồm các thủ tục: Kiểm tra lại biên bản
phiên tòa; gửi trích lục án và bản sao bản án.
Mặc dù còn hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp, các quy định không theo kết cấu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status