Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ chồng A Phủ) - Pdf 44

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHẠM THỊ HIỀN

NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ
TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG
ĐIỆN ẢNH TỪ PHƯƠNG DIỆN
CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT
(QUA TRƯỜNG HỢP VỢ CHỒNG
A PHỦ)
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc TS. Nguyễn Thị Kiều Anh đã hướng
dẫn, góp ý trao đổi về phương pháp luận, nội dung nghiên cứu và các hướng
dẫn khoa học khác mà còn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành khóa luận
một cách tốt nhất. Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện
để tôi hoàn thành việc nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Kiều Anh. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình
thức nào trước đây. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

tác phẩm điện ảnh......................................................................................... 14
1.3.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học 14
1.3.1.1. Khái niệm ........................................................................................ 13
1.3.1.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học ............... 15
1.3.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm điện ảnh 16
1.3.2.1. Khái niệm ........................................................................................ 16
1.3.2.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong phim .................................. 17


1.4. Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm văn
học và điện ảnh ............................................................................................ 18
1.4.1. Vài nét về tác giả Tô Hoài .................................................................. 18
1.4.2. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm văn học và điện
ảnh ............................................................................................................... 19
CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
SANG ĐIỆN ẢNH NHÌN TỪ CỐT TRUYỆN ......................................... 22
2.1. Những tiếp thu, bổ sung và sáng tạo cốt truyện Vợ chồng A Phủ của Tô
Hoài ............................................................................................................. 22
2.1.1. Những tiếp thu từ tác phẩm văn học ................................................... 23
2.1.2. Những bổ sung và sáng tạo từ cốt truyện của tác phẩm....................... 24
2.2. Một số hạn chế ...................................................................................... 28
2.3. Xử lý tình huống truyện......................................................................... 28
2.4. Nghệ thuật chuyển qua việc xây dựng không gian – thời gian ............... 32
2.5. Nghệ thuật chuyển thể qua mở đầu và kết thúc ...................................... 44
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
SANG ĐIỆN ẢNH NHÌN TỪ NHÂN VẬT .............................................. 47
3.1. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hệ thống ........................................ 47
3.2. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hành động, tính cách ..................... 49
3.3. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua ngôn ngữ ...................................... 52
KẾT LUẬN ................................................................................................. 59


1


đầu tư công phu của các biên kịch và đạo diễn tài năng đã tạo nên nhiều bộ
phim gây tiếng vang lớn như: Hương ga (2014) chuyển thể từ tiểu thuyết
Phiên bản của nhà văn Nguyễn Đình Tú, phim Quyên (2015) được chuyển thể
từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ và đáng chú ý là bộ
phim Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2015) chuyển thể từ cuốn sách cùng tên
của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh như mang một hương vị mới vào phim chuyển
thể của Việt Nam, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân và
hứa hẹn nhiều bất ngờ, hấp dẫn trong các bộ phim sắp tới.
1.2. Tự sự học là một ngành nghiên cứu còn non trẻ, được định hình từ
những năm 60- 70 của thế kỷ XX ở Pháp, nhưng nhanh chóng vượt ra ngoài
biên giới và có nhiều đóng góp quan trọng trong nghiên cứu khoa học cơ bản.
Nó còn được vận dụng vào nhiều hình thức tự sự khác như: tôn giáo, lịch sử,
triết học, âm nhạc, mỹ thuật, điện ảnh,… Roland Bathes đã từng nói đại ý tự
sự xuất hiện cùng bản thân lịch sử loài người. Trong đó, tự sự học là đối
tượng nghiên cứu lâu đời và phức tạp nhất. Mà điện ảnh lại ra đời muộn, nên
tự sự điện ảnh là em út trong nghiên cứu tự sự học. Nhưng giữa diện ảnh và
văn học có sự kết nối tạo nên mối quan hệ hữu cơ khi so sánh tự sự văn học
với tự sự điện ảnh, mặc dù giữa chúng có nhiều điểm chung nhưng cũng có
không ít điểm khác biệt vì phương thức tác động và chất liệu của hai loại hình
nghệ thuật là khác nhau.
1.3. Mặt khác, người viết với niềm yêu thích văn chương và điện ảnh
mong muốn khám phá sâu hơn vào địa hạt của hai lĩnh vực này, bổ sung cho
mình cũng như những người yêu văn chương và điện ảnh có thêm những kiến
thức quý báu, phát hiện ra vẻ đẹp bí ẩn đằng sau “tảng băng trôi” của mỗi tác
phẩm văn học và điện ảnh. Đồng thời cũng mong muốn tìm ra bí quyết để
một bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học sang một tác phẩm điện ảnh có

cho những nhà làm phim khi chuyển thể từ tác phẩm văn học chứ chưa chỉ ra
một cách có hệ thống và chuyên sâu mối quan hệ giữa văn học với điện ảnh.

3


Bên cạnh đó, cuốn Dẫn luận và nghiên cứu “ Điện ảnh và văn học”
(Timothy Corrigan) đã đưa ra khá nhiều điểm đồng thuận cũng như khác biệt
giữa văn học và điện ảnh trên cơ sở tái hiện một loạt giai đoạn lịch sử, các
phong tục văn hóa và phương pháp phê bình. Điều này giúp các nhà nghiên
cứu có được cái nhìn tổng quan về hai loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên,
xét về góc độ cốt truyện và nhân vật có ý nghĩa như thế nào trong việc chuyển
thể dường như vẫn chưa được người viết chú trọng.
Ngoài ra, báo chí cũng có một số bài viết về vấn đề này như trên báo
Người lao động online có bài Văn học – điện ảnh: Hiệu ứng cộng sinh
(http:nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/van-hoc-dien-anh-hieu-ung-cong-sinh
2010112712436129.htm) nói về ảnh hưởng của mối quan hệ này đồng thời
chỉ ra áp lực của nhà làm phim trước dư luận khi chuyển thể một bộ phim từ
tác phẩm văn học nổi tiếng,…
Mỗi công trình nghiên cứu hay bài báo của các tác giả đi trước dù là ở
góc độ nào cũng là những tư liệu quý báu để chúng tôi có có cách nhìn tổng
quát và toàn diện, sâu sắc hơn về vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang
tác phẩm điện ảnh. Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu, lý thuyết của ngành
tự sự học giúp chúng tôi có “bộ công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất giúp cho
người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu điện ảnh, giao tiếp, phương
tiện truyền thông, nghiên cứu văn hóa” [ 2, tr.11]. Từ đó, chúng tôi có thêm
những hiểu biết trong việc so sánh giữa các nghành nghệ thuật, đây cũng là
phương tiện quan trọng để chúng tôi tìm ra những điểm tương đồng và khác
biệt giữa hai loại hình tự sự trên và phát hiện, lý giải được quá trình chuyển
thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh từ phương diện
cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ chồng A Phủ)
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tác phẩm Vợ chồng A Phủ trong Truyện Tây Bắc - Tô Hoài.
- Bộ phim chuyển thể Vợ chồng A Phủ (biên kịch: Tô Hoài; đạo diễn:
Trần Phương).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp liên ngành: vận dụng các nghiên cứu trong lĩnh vực lịch
sử, văn học,văn hóa, điện ảnh,..
- Phương pháp phân tích tổng hợp: từ việc phân tích những nghiên cứu
về nhân vật và cốt truyện trong văn học và điện ảnh, sau đó chúng tôi tổng
hợp và đưa ra những ý kiến đánh giá riêng về việc chuyển thể tác phẩm văn
học sang tác phẩm điện ảnh.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: vận dụng phương pháp này giúp
người viết có cái nhìn thấu đáo, sâu sắc khi phân tích tác phẩm gốc và tác
phẩm chuyển thể.
- Thao tác thống kê, phân loại được sử dụng linh hoạt trong từng luận
điểm của luận văn,…
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 phần:
Chương 1: Khái quát chung về tự sự và hiện tượng chuyển thể tác
phẩm.
Chương 2: Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn
từ cốt truyện.
Chương 3: Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn

gì” và “kể như thế nào”. Từ đó cho thấy sự phức tạp của cấu trúc tự sự, vấn

7


đề ý thức của chủ thể tự sự, kết cấu của tầng bậc trần thuật, loại hình cốt
truyện,…Những điều này sẽ là cơ sở lý luận để chúng tôi khám phá việc
chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh qua lăng kính tự sự ở hai góc
nhìn: cốt truyện và nhân vật, để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt,
kế thừa và cách tân giữa hai loại hình tự sự này.
Liên văn bản là khái niệm mà nhiều ngành nghệ thuật dùng để nói về
mối quan hệ qua lại, tác động của những tác phẩm nghệ thuật. Người ta chia
làm hai loại liên văn bản: kinh điển và hậu hiện đại. Xét trong góc độ văn học,
khái niệm này có thể được hiểu theo: chiều ngang( chủ thể - người tiếp nhận)
và chiều dọc ( văn bản – văn cảnh) được xuất hiện không chỉ trong tác phẩm
gốc mà có sự liên kết trong nhiều tác phẩm khác nhau. Liên văn bản góp phần
xóa đi ranh giới giữa các thể loại. Tiêu biểu như trong đề tài chiến tranh, khi
các nhà làm phim tái hiện lại lịch sử trên màn ảnh dựa trên tư liệu lịch sử có
sự kết hợp với các yếu tố âm nhạc, mỹ thuật, văn học cũng có điểm khác biệt
dù có khi vay mượn của nhau. Vậy nên, trong trào lưu hậu hiện đại, khái niệm
liên văn bản sẽ có những cách đọc hiểu văn bản khác nhau. Một kịch bản điện
ảnh được chuyển thể từ tác phẩm điện ảnh là một dẫn chứng điển hình cho
việc xóa nhòa đi ranh giới của văn bản.
Cải biên cũng là một dạng của liên văn bản, trong đó khai thác, sang lọc
những yếu tố cơ bản của tác phẩm gốc để sáng tạo ra một sản phẩm mới. Bằng
việc chuyển từ cách đọc này sang cách đọc khác, từ tác phẩm văn học là sản
phẩm của ngôn từ sang điện ảnh là sự kết hợp của nhiều yếu tố. Cải biên là sự
sáng tạo trên cái gốc (tác phẩm văn học) để tạo ra một tác phẩm điện ảnh có
giá trị.



9


B. Tomachevski với tiểu luận Hệ chủ đề, là một trong những người
đầu tiên đi sâu nghiên cứu các thủ pháp cốt truyện. B. Tomachevski phân
biệt khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sinzhet, subject) khác
với cách phân biệt của A. Veselovski, G.N.Popspelov, L.I.Timofeep. Theo
ông, chuyện kể là tập hợp những biến cố có quan hệ với nhau được thông tin
cho người đọc trong suốt chiều dài tác phẩm, nó có thể được tóm tắt theo trật
tự biên niên hay nhân quả của các biến cố mà không phụ thuộc vào thứ tự
được trình bày. Còn cốt truyện thì đi theo trình tự xuất hiện của các biến cố
trong tác phẩm. Nói cách khác, mối quan hệ giữa các biến cố trong chuyện
kể mang tính thời gian và đi từ nguyên nhân đến kết quả, còn cốt truyện lại
liên kết các môtip theo trình tự xuất hiện trong tác phẩm, và như thế nó hoàn
toàn là một sản phẩm được chế tác, có tính nghệ thuật.
V. Shklovski triển khai việc nghiên cứu các thủ pháp xây dựng văn tự
sự trong các tiểu luận: Nghệ thuật như là thủ pháp; Nghệ thuật dựng truyện
vừa, truyện ngắn và tiểu thuyết. Theo V. Shklovski, nói chung, nhiều tác
phẩm tự sự được xây dựng theo kiểu các chủ đề quán xuyến tích tụ lại thành
các trung tâm nối tiếp nhau như các “chiếu nghỉ cầu thang”. Và cấu trúc
“xoắn ốc” hay “chiếu nghỉ cầu thang” được phức tạp hoá bằng các phát triển
đa dạng, trong đó các tình tiết được sắp xếp thành những tầng nấc kế tiếp
nhau. Chủ đề quán xuyến của truyện có thể được hình thành từ những mâu
thuẫn, phát sinh trên cơ sở của sự trái ngược, của điều không thể xảy ra...
Sơ lược việc điểm qua những nét chính trong quan điểm của các nhà
lý luận trên thế giới về việc nghiên cứu cốt truyện chúng ta có thể nhận ra
tầm quan trọng cũng như sự phức tạp của vấn đề. Điều này trước hết có lẽ
bắt nguồn từ việc hiểu phạm trù khái niệm cốt truyện.



1.2.2. Khái niệm về cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh
1.2.2.1.Khái niệm
Cốt tuyện trong phim bao gồm tất cả những sự kiện của câu chuyện
được mô tả trực tiếp trên phim, được sắp xếp một cách có tổ chức, hay “một
chuỗi những sự kiện trong một mối liên hệ nhân quả xảy ra trong không gian
và thời gian” [5, tr. 95].
Có thể có những nhìn nhận khác nhau về cốt truyện. Nhưng căn cứ vào
thực tiễn của chính phim truyện thì chúng ta có thể thấy cốt truyện của phim
(và việc xây dựng nó) chính là một khâu rất quan trọng trong sáng tác điện
ảnh. Nhận diện rõ về cốt truyện đồng thời khám phá những nguyên lý, những
khả năng căn bản phổ biến của việc xây dựng cốt truyện, người làm phim và cả
người thưởng thức phim có thể nắm vững hơn về bộ phim sắp làm, sắp xem.
Cốt truyện có vai trò cơ bản là làm tiền đề để kể tả. Người làm phim
khó có thể diễn đạt một câu chuyện nào đó mà không thông qua việc xây
dựng cốt truyện (trừ dạng phim ít dựa vào cốt truyện). Mới mẻ, độc đáo, hay,
hấp dẫn, chứa đựng ý tưởng quan trọng hoặc đặc biệt. Đây là yêu cầu một số,
đồng thời không dễ dàng đối với cốt truyện. Chính vì vậy, các nhà, các hãng
sản xuất phim luôn săn tìm, để ý đến số lượng lớn những kịch bản gửi đến
nhưng thường chỉ lọc lựa ra được không nhiều các kịch bản đáp ứng yêu cầu
này. Đối với các nhà làm phim thường thường họ cũng không nghĩ ra hoặc
làm được nhiều kịch bản cũng như phim đảm bảo yêu cầu này (trừ một vài
nghệ sĩ có tài năng lớn như Trương Nghệ Mưu hoặc S.Spielberg...).
1.2.2.2. Đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong phim
Để rút gọn hơn vào nhìn nhận của những người nghiên cứu cũng như
sáng tác chuyên nghiệp - coi phim là một tác phẩm nghệ thuật, là một sản
phẩm văn hóa cao cấp phục vụ khán giả - thì hay, độc đáo, mới mẻ, hấp dẫn là
những tiêu chí ở yêu cầu cao về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Đã là cao thì

12

13


biết về phim truyện nói riêng và văn hóa nghệ thuật cũng như đời sống nói
chung. Một cốt truyện có giá trị còn phải là cốt truyện chứa đựng nhiều tiềm
năng tốt cho việc biểu đạt của các yếu tố cấu thành thuộc ngôn ngữ nghe - nhìn.
Trong vấn đề này, cốt truyện của phim mang tính đặc thù của cách biểu
đạt điện ảnh. Nó khác với cốt truyện văn học ở sự diễn đạt phong phú của
hình ảnh và âm thanh. Mỗi giây màn ảnh không chỉ thuần túy là thông tin mà
luôn là sự diễn đạt có tính hình tượng, liên hệ hữu cơ với nhau trong chuỗi
hành động kịch tính hoặc biểu hiện.
1.3. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn
học và tác phẩm điện ảnh
1.3.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
1.3.1.1. Khái niệm
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác
phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả
kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần,
thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh
hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn
học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng cũng có thể không có tên riêng.
Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ không chỉ
một con người cụ thể mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm.
Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây,
các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người.
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ không
thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật
với những nét rất gần với nguyên mẫu.


15


thành con đường quan trọng nhất để xác định giá trị của tác phẩm, để nhận ra
lí tưởng thẩm mĩ cùng tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn.
1.3.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm điện ảnh
1.3.2.1. Khái niệm
Nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành
công cho tác phẩm nghệ thuật. Ở bất cứ bộ môn nghệ thuật nào, việc xây
dựng nhân vật luôn được xem trọng và cần sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Đặc
biệt với nghệ thuật điện ảnh, nhân vật lại cần có sức cộng hưởng lớn với
những yếu tố khác trong phim, và có thành công hay không phụ thuộc nhiều
vào tâm huyết, sự cẩn trọng cùng khả năng sáng tạo của những người tạo ra
nó (biên kịch, đạo diễn, diễn viên).
Xây dựng thành công một nhân vật điện ảnh điển hình, khái quát với
tính thẩm mỹ cao và có tầm ảnh hưởng sâu sắc, tác động đến người xem, thực
sự không đơn giản đối với bất kỳ một nhà sáng tác nào. Công việc này đòi hỏi
người nghệ sĩ phải suy nghĩ, trăn trở, dám đi đến tận cùng của sự sáng tạo.
Là đối tượng cơ bản và quan trọng trong lý luận văn học nghệ thuật, nhân
vật được phản ánh, mô tả với những nét cá tính, đặc điểm tính cách cụ thể.
Xây dựng nhân vật là yếu tố cần thiết và quan trọng, có ảnh hưởng
nhiều đến sự thành công hay thất bại của tác phẩm. Tác phẩm có sống
động, tồn tại lâu dài hay không tùy thuộc vào khả năng sáng tạo của người
nghệ sĩ, và xây dựng nhân vật của tác phẩm. Xem một tác phẩm điện ảnh
đã khá lâu, có thể quên tác phẩm ở nhiều điểm, đôi khi quên cả ý nghĩa của
tác phẩm, nhưng với nhân vật thì ta khó lòng quên được, nếu nhân vật đó
có tính cách, cá tính ấn tượng, đời sống tâm lý riêng biệt. Đó còn là môn
nghệ thuật đặc biệt khắt khe trong việc xây dựng nhân vật, điện ảnh có
những đòi hỏi cũng như kỹ thuật trong công việc này.


17


xem. Nhân vật trong phim thực sự chỉ tồn tại lâu bền khi nó được sống, chết,
nghĩ và hành động… theo quy luật phát triển tự nhiên hợp logic.
1.4. Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm
văn học và điện ảnh
1.4.1. Vài nét về tác giả Tô Hoài
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27.9.1920 trong một gia
đình thợ thủ công nghèo làm nghề dệt lụa ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức
tỉnh Hà Đông cũ nay là phường Nghĩa Đô quận Cầu Giấy, Hà Nội. Bút danh
Tô Hoài được xuất phát từ con sông Tô Lịch phủ Hoài Đức của quê ngoại nhà
văn ở phường Nghĩa Đô. Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng chính tài
năng của mình khi ông tự mình sáng tác một số những bài thơ rất lãng mạn
hay những cuốn truyện vừa, được viết theo kiểu vô hiệp, nhưng rồi ông
nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những
sáng tác đầu tay, trong đó có Dế Mèn phiêu lưu kí.
Năm 1943, ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp ông làm báo và hoạt động nghệ thuật rất sôi nổi ở Việt
Bắc. Và có thể nói Tô Hoài một người rất có duyên gắn bó máu thịt với quê
hương Tây Bắc và đồng bào các dân tộc nơi đây. Ông là một nhà văn lớn, có
số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông cho rằng:
“Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không
tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”.
Một người tài năng và có trái tim nóng bỏng với sự hiểu biết phong phú, sâu
rộng đặc biệt là về những văn hóa tập quán của nhiều vùng miền trên đất nước
ta. Ông yêu những gì giản dị, yêu những gì thuộc về nét đẹp dân tộc và yêu
nồng hậu những con người của dân tộc ấy. Tô Hoài có biệt tài luôn thu hút
người đọc bởi chính những gì chân thật nhất mà ông đã từng trải qua và ông
viết văn như viết bằng chính máu của mình, cộng thêm lối trần thuật hóm

bức tranh miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống vùng cao, nơi có những

19


thân phận khổ đau, những con người nghèo khó sống dưới ách áp bức, bóc lột
của thực dân, phong kiến.Truyện không chỉ phản ánh nỗi khổ của những
người như Mị, như A Phủ, truyện còn là bài ca ca ngợi những phẩm chất cao
đẹp, sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do cháy bỏng của những người con
nơi núi rừng Tây Bắc.
Nếu trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài nổi tiếng với tác phẩm Dế
mèn phưu lưu ký, thì sau Cách mạng tháng Tám, sau khi đã đi theo kháng chiến,
Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng của mình bằng tập Truyện Tây Bắc..
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn
viết về đề tài Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm chứa đựng cả giá trị
nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
Cùng với những bộ phim nổi tiếng như Làng Vũ Đại ngày ấy, Chị Dậu,
Rừng xà nu, Số đỏ…, Vợ chồng A Phủ là một trong những “bộ phim văn học”
xuất sắc nhất của điện ảnh Việt Nam. Trong bộ phim chuyển thể từ truyện
ngắn, có nhiều chi tiết khác với nguyên tác văn học. Tuy vậy, những giá trị
hiện thực, giá trị nhân đạo vẫn được giữ gìn nguyên vẹn.
Giá trị hiện thực của tác phẩm đã được thể hiện trong cuộc sống của
người dân lao động miền núi Tây Bắc, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực
dân, phong kiến.
Nam chính A Phủ do NSND, đạo diễn Trần Phương thể hiện. Ông sinh
năm 1930, là diễn viên – đạo diễn kiệt xuất của nền điện ảnh Việt Nam.
Ngoài Vợ chồng A Phủ, Trần Phương từng tham gia đóng nhiều phim Cách
mạng, để lại nhiều dấu ấn như Chị Tư Hậu, Tiền tuyến gọi, Vợ chồng anh
Lực... Những bộ phim do ông đạo diễn cũng để lại nhiều tiếng vang, giành
được nhiều giải thưởng lớn: Hy vọng cuối cùng, Tội lỗi cuối cùng, Dòng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status