PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN TỰ NGUYỆN CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM - Pdf 47

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THÚY AN

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN TỰ NGUYỆN
CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THÚY AN

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN TỰ NGUYỆN
CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số ngành: 60340301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. NGUYỄN XUÂN HƯNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016


Báo cáo tài chính

BCTN

Báo cáo thường niên

CBTT

Công bố thông tin

FE

Mô hình tác động cố định

HĐQT

Hội đồng quản trị

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTMCP

Ngân hàng thương mại cổ phần


Thành phố Hồ Chí Minh

TTCK

Thị trường chứng khoán

Fixed Effects

Ordinary

Least


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Tóm tắt các nghiên cứu trước đây .................................................................. 7
Bảng 3.1: Danh mục CBTT tự nguyện trong giai đoạn 2010-2011 .............................. 27
Bảng 3.2: Danh mục CBTT tự nguyện trong giai đoạn 2012-2015 .............................. 28
Bảng 3.3: Các biến được sử dụng trong mô hình hồi qui ............................................. 32
Bảng 4.1: Qui mô HĐQT trung bình và tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập trung bình
của hệ thống NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2010-2015 ........................... 36
Bảng 4.2: Tỷ lệ sở hữu bình quân của cổ đông tổ chức trong hệ thống NHTMCP
Việt Nam giai đoạn 2010-2015.................................................................... 37
Bảng 4.3: Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản bình quân của hệ thống NHTMCP Việt
Nam giai đoạn 2010-2015 ........................................................................... 38
Bảng 4.4: Tỷ suất sinh lời trên tài sản trung bình của hệ thống NHTMCP Việt Nam
giai đoạn 2010-2015 .................................................................................... 38
Bảng 4.5: Mức độ công bố thông tin tự nguyện của các NHTMCP Việt Nam giai
đoạn 2010-2015 ........................................................................................... 39
Bảng 4.6: Kết quả thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu ........................ 42

gia, ngành Ngân hàng còn góp phần đáng kể trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô và góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Để hệ thống ngân hàng Việt
Nam phát huy được tầm quan trọng này, đòi hỏi từng ngân hàng thành viên đạt được
sự phát triển ổn định và bền vững. Điều này cần có sự đồng bộ của nhiều yếu tố, trong
đó, một trong những yếu tố rất quan trọng chính là việc tăng cường mức độ công bố
thông tin (CBTT) trong BCTC. Bởi vì, thông tin là huyết mạch của thị trường, nếu
thiếu thông tin hoặc thông tin thiếu minh bạch sẽ gây ra bất ổn thị trường, làm cho
hoạt động đầu tư kém hiệu quả. Tuy nhiên, thông tin được trình bày và công bố như
thế nào để đáp ứng được nhu cầu người sử dụng vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa
kỳ vọng và thực tế. Nhiều doanh nghiệp còn xem nhẹ việc CBTT, số liệu công bố
còn có sự chênh lệch khá đáng kể.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về mức độ công bố thông tin, như Eng và Mak
(2003) về sự ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu và cơ cấu hội đồng quản trị (HĐQT) đến
mức độ CBTT tự nguyện, Hossain (2008) về CBTT tự nguyện trên báo cáo thường


niên (BCTN) của các ngân hàng Ấn Độ, Mallin và Ow-Yong (2012) về đặc điểm
doanh nghiệp ảnh hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện của các doanh nghiệp tại Anh,
hay Hawashe (2015) về đặc tính của ngân hàng ảnh hưởng đến mức độ CBTT tự
nguyện,… Tại Việt Nam gần đây cũng nổi lên nhiều nghiên cứu về vấn đề này, như
Nguyễn Công Phương và cộng sự (2014) về các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT
tài chính của công ty niêm yết, hay Lê Thị Trúc Loan (2012) về mối quan hệ giữa
một số nhân tố về đặc điểm doanh nghiệp và mức độ CBTT của các doanh nghiệp
niêm yết trên TTCK Việt Nam.... Các nghiên cứu đã nói lên tầm quan trọng của việc
CBTT và ngày càng được quan tâm. Tuy nhiên, các nghiên cứu về mức độ CBTT tự
nguyện của các ngân hàng vẫn còn khá hạn chế, đa phần là các nghiên cứu về mức
độ CBTT tự nguyện của các doanh nghiệp. Do đó, việc nghiên cứu để tìm ra các nhân
tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện, trên cơ sở đó tìm ra giải pháp để nâng
cao chất lượng CBTT tự nguyện của các ngân hàng là hết sức quan trọng, có giá trị
và luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách,

 Ba là, kết quả mô hình hồi qui cho thấy các nhân tố nào ảnh hưởng đến mức độ
CBTT tự nguyện của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015?
 Bốn là, các khuyến nghị, giải pháp nào phù hợp với tình hình thực tiễn nghiên
cứu giúp nâng cao mức độ CBTT tự nguyện của các NHTMCP Việt Nam trong tương lai?
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu mức độ CBTT tự nguyện và các nhân tố tác động đến mức độ
CBTT tự nguyện của các NHTMCP Việt Nam.
3.2

Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Tác giả thực hiện nghiên cứu dựa trên dữ liệu của 30 NHTMCP Việt
Nam. Các ngân hàng được chọn nghiên cứu đã bao gồm 4 NHTM Nhà nước đã cổ phần hóa.
Về thời gian: Dữ liệu thu thập chủ yếu trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm
2015, trong đó bao gồm dữ liệu có sẵn từ BCTC đã được kiểm toán và BCTN của các
NHTMCP Việt Nam.


4.

Phương pháp nghiên cứu

Trước tiên, tác giả sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu từ BCTC đã

BCTC có thể hiểu rõ thêm và thông suốt hơn về ý nghĩa của lượng thông tin tự nguyện
mà các ngân hàng đã công bố để từ đó đưa ra quyết định đầu tư một cách hiệu quả;
đồng thời, tác giả kỳ vọng kết quả của nghiên cứu sẽ là một trong những cơ sở giúp
các ngân hàng công bố nhiều thông tin tự nguyện hơn, cũng như đưa ra các biện pháp
nhằm nâng cao mức độ CBTT tự nguyện của ngân hàng, từ đó giúp BCTC và BCTN
của ngân hàng được đầy đủ, công khai và minh bạch hơn.
6.

Kết cấu của Luận văn

Luận văn nghiên cứu của tác giả bao gồm 5 Chương với nội dung như sau:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
Chương 5: Kết luận và khuyến nghị.


1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRONG VÀ
NGOÀI NƯỚC

1.1

Các nghiên cứu trên thế giới

Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về mức độ CBTT, đặc biệt vấn đề CBTT tự
nguyện được sự quan tâm của rất nhiều tác giả, một số nghiên cứu sử dụng phương
pháp định tính, một số nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng, hoặc, một số

phân tích, tỷ lệ số cổ phiếu trả lại và tỷ suất sinh lời trên tài sản hoặc tỷ suất sinh lời
trên vốn chủ sở hữu. Bằng phương pháp hồi qui Pooled OLS, nhóm tác giả nhận thấy
sở hữu của nhà quản lý và sở hữu Nhà nước làm tăng mức độ CBTT; trong khi đó, tỷ
lệ sở hữu của các cổ đông lớn thì không có tác động; thậm chí, giám đốc thuê ngoài
còn làm giảm mức độ CBTT. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy các doanh nghiệp lớn
hoặc doanh nghiệp có nợ thấp sẽ công bố nhiều thông tin hơn các doanh nghiệp nhỏ.
Một nghiên cứu tiếp theo của Baumann và Nier (2006) trên khía cạnh đạo đức trong
ngành ngân hàng, với bộ dữ liệu gồm 729 ngân hàng của 32 quốc gia lớn, thu thập dữ
liệu từ năm 1993 đến năm 2000, kết quả cho thấy mức độ CBTT của các ngân hàng
làm tăng tính hữu ích trong việc dự báo, tăng giá thị trường, giảm biến động giá cổ phiếu.
Nghiên cứu sau đó được thực hiện tại Malaysia của Ghazali và Weetman (2006) về
sự ảnh hưởng của các nhân tố truyền thống đến mức độ CBTT tự nguyện trên BCTN
của các công ty sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu sử dụng 9 biến độc lập, cách
ghi điểm không trọng số và phần mềm SPSS10.0 để phân tích dữ liệu, kết luận cuối
cùng cho thấy dù có khủng hoảng kinh tế hay không thì sở hữu gia đình, sở hữu Nhà
nước và khả năng cạnh tranh đều có tác động đến mức độ CBTT tự nguyện.
Dần dần đặc điểm yếu tố văn hóa cũng được tiến hành nghiên cứu, Hooi (2007)
nghiên cứu trên BCTN của 34 NHTM năm 2004 với 104 khoản mục, bao gồm 5 biến
yếu tố văn hóa như sau: giá trị cá nhân, giới tính nam, quyền lực, trốn thuế và định
hướng tương lai. Qua phân tích hồi qui đa biến thấy rằng chỉ có biến trốn thuế là có
tác động đến mức độ CBTT nêu trên. Các biến còn lại không có ảnh hưởng rõ rệt.


3

Hossain và Taylor (2007) điều tra mức độ CBTT tự nguyện của 20 ngân hàng tại
Banglades trên BCTN năm 2000 và 2001 dựa trên tiêu chuẩn của Chuẩn mực quốc
tế IAS 30 với 45 khoản mục thông tin được lựa chọn, bao gồm các nhân tố: qui mô
ngân hàng, công ty kiểm toán và khả năng sinh lời. Bằng phương pháp chấm điểm,
kết quả cho thấy biến qui mô ngân hàng và công ty kiểm toán có tác động mạnh mẽ

độ CBTT tự nguyện tăng cùng sự gia tăng tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT, sự
ảnh hưởng của qui mô công ty đến mức độ CBTT là phù hợp với các nghiên cứu
trước đó, tỷ lệ đòn bẩy tài chính đã được tìm thấy là có ý nghĩa thống kê và mối quan
hệ âm với mức độ CBTT tự nguyện. Sự hiện diện của các cổ đông là tổ chức (dựa
trên tỷ lệ sở hữu cổ phần) không ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Trong bài nghiên cứu
tác giả còn nêu đầy đủ phương pháp nghiên cứu, kích thước mẫu, chỉ số R2 và ý nghĩa
các con số. Hướng nghiên cứu tiếp là liệu sau cuộc khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng
đến cơ cấu quản lý như thế nào.
Bhasin và Shaikh (2013) nghiên cứu ảnh của hưởng cấu trúc quản trị công ty đến
mức độ CBTT trên BCTN của 50 tập đoàn với 40 mục thông tin được tiết lộ trong 49
mục, dữ liệu từ năm 2003 đến năm 2005, sử dụng phương pháp xếp hạng. Tác giả đã
đưa ra nhận định như sau: các chính sách, qui tắc ứng xử của giám đốc và quản lý
cấp cao là yếu tố quan trọng trong việc CBTT. Đồng thời đề xuất hướng nghiên cứu
tiếp theo nên mở rộng các tiêu chuẩn về quản trị công ty.
Một nghiên cứu khác của Malaquias và Lemes (2013) điều tra mức độ công bố công
cụ tài chính với mức độ CBTT của 24 công ty ở Brazil thu thập dữ liệu từ năm 2002
đến năm 2006. Kết quả nhận thấy mức độ CBTT của các công ty ở Brazil chỉ ở mức
trung bình, thấp hơn so với các công ty ở thị trường Mỹ.
Gần đây nhất là nghiên cứu của Hawashe (2015) về đặc tính của ngân hàng ảnh
hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện, được mở rộng sang các nước mới phát triển như
Lybia. Một điều tra thực nghiệm với 7 nhân tố: độ tuổi của ngân hàng, qui mô của
ngân hàng, khả năng thanh khoản, lợi nhuận, tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, tỷ lệ sở hữu
nước ngoài và tình trạng niêm yết. Phân tích hồi qui OLS cho thấy được sự liên kết
giữa qui mô và tình trạng niêm yết với mức độ CBTT tự nguyện. Nghiên cứu thực
nghiệm này góp phần vào cuộc điều tra trong bối cảnh các công ty ngân hàng và cung


5

cấp cái nhìn sâu sắc mới vào yếu tố quyết định CBTT tự nguyện trong báo cáo hàng


6

xây dựng để đo lường: thiết lập một danh sách các khoản mục thông tin tự nguyện,
tỷ lệ quan trọng của các khoản mục và mức độ công bố thực của các khoản mục công
bố. Kết quả cho thấy các công ty cung cấp nhiều thông tin tự nguyện sẽ làm giảm
khoảng cách đối với người sử dụng, được sự đồng thuận cao đối với các khoản mục
công bố, cần thiết để cung cấp nhiều thông tin hơn. Kết quả cũng tìm thấy mức độ
công bố thấp về nguồn nhân sự của các tập đoàn Việt Nam cũng giống các nước đang
phát triển như Japan, Ireland.
Binh (2014a) tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam với các nhân tố:
qui mô công ty, lợi nhuận, tỷ lệ đòn bẩy tài chính, tỷ lệ sở hữu của cổ đông tổ chức,
tỷ lệ sở hữu cổ đông nước ngoài, công ty kiểm toán và sự kiêm nhiệm trong lãnh đạo
tác động đến mức độ CBTT tự nguyện. Kết quả tìm thấy mối quan hệ giữa cấu trúc
sở hữu và mức độ CBTT tự nguyện.
Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) tiến hành nghiên cứu trên 300 công ty niêm yết trên
SGDCK TPHCM, kết quả cho thấy mức độ CBTT tự nguyện của các công ty niêm
yết còn thấp, đồng thời tác giả cũng kết luận rằng qui mô công ty, loại hình sở hữu
và lợi nhuận có tác động thuận chiều, các nhân tố còn lại không có ảnh hưởng.
Bùi Ngọc Ly (2015) kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến BCTN của các NHTM
Việt Nam, sau khi phân tích hồi qui OLS xác định ảnh hưởng của các nhân tố công
ty kiểm toán, số năm hoạt động và tình trạng niêm yết đến CBTT tự nguyện có ý
nghĩa thống kê. Bài nghiên cứu có nhiều đóng góp cho khoa học và thực tiễn, mở ra
nhiều hướng nghiên cứu mới.
Hieu và Lan (2015) nghiên cứu mức độ CBTT của 205 công ty trên TTCK Việt
Nam, gồm các biến độc lập: qui mô công ty, lợi nhuận, tỷ lệ đòn bẩy tài chính, tỷ lệ
sở hữu Nhà nước, tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư tổ chức, tỷ lệ sở hữu nước ngoài, tỷ lệ thành
viên HĐQT độc lập không điều hành, công ty kiểm toán, kiêm nhiệm vai trò. Tác giả
cũng tìm thấy mối quan hệ giữa qui mô công ty, tỷ lệ sở hữu nước ngoài với mức độ
CBTT. Các biến còn lại không có ảnh hưởng đáng kể.

Biến phụ
thuộc

Biến độc lập

Kết quả

DSCORE: mức Tỷ lệ sở hữu của
ước độ CBTT tự nhà quản lý, tỷ lệ

Pooled OLS

nguyện

Kết quả cho thấy
tỷ lệ sở hữu của

sở hữu của cổ nhà quản lý và sở
đông lớn, tỷ lệ sở

hữu

nhà

nước,

hữu của nhà nước, doanh nghiệp có
cơ cấu HĐQT, cơ

qui lớn và tỷ lệ đòn

Sử

dụng VD: mức độ Qui

Taylor

phương

(2007)

pháp

CBTT

chấm nguyện



ngân Kết quả cho thấy

tự hàng,công ty kiểm biến qui mô ngân
toán, ROA

hàng và công ty

điểm

kiểm toán có tác
động mạnh mẽ,
còn

lệ thành viên độc động cùng chiều
lập trong HĐQT, với mức độ CBTT
sự tách biệt giữa tự nguyện. Ngược
nhà quản lý và nhà lại tỷ lệ đòn bẩy
môi

giới,

tình tài chính có tác

trạng niêm yết, động ngược chiều,
doanh thu, qui mô biến tỷ lệ sở hữu
công ty và tỷ lệ của cổ đông tổ
đòn bẩy tài chính.

chức không có ảnh
hưởng, các biến
còn lại không có
ảnh hưởng rõ rệt.

Agyei-

SPSS 14.0

EOD: mức độ Qui

Mensah

CBTT


mức Độ

tuổi

ngân Kết quả cho thấy

ước độ CBTT tự hàng, qui mô ngân có mối tương quan

lượng
dụng OLS

sử nguyện

hàng, khả năng giữa qui mô ngân
thanh

khoản, hàng và tình trạng

ROA, tỷ lệ sở hữu niêm yết với mức
nhà nước, tỷ lệ sở

độ

CBTT

hữu nước ngoài và nguyện
tình trạng niêm yết

tự


2.2

Phân loại thông tin

Theo Citro (2013) công bố thông tin gồm có hai loại
Thông tin bắt buộc: là thông tin phải công bố theo qui định của pháp luật và các qui
định khác có liên quan đối với các doanh nghiệp, công ty, ngân hàng,… phải được
trình bày và công bố theo qui định.
Thông tin tự nguyện: là các thông tin không bắt buộc công bố. Ngân hàng có thể lựa
chọn không công bố hoặc công bố nó nhằm thỏa mãn thêm nhu cầu của người sử
dụng. Ngày nay vấn đề CBTT tự nguyện ngày càng được khuyến khích vì tầm ảnh
hưởng rất quan trọng của nó đối với bản thân các doanh nghiệp, các ngân hàng và các
nhà đầu tư.
Theo quy định của thông tư số 155/2015/TT-BTC ngày 06/10/2015 hướng dẫn về
việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán bao gồm
Công bố thông tin định kỳ: gồm các BCTC năm đã được kiểm toán, BCTC bán niên,
BCTC quý.
Công bố thông tin bất thường: các thông tin bất thường theo qui định như vốn góp
chủ sở hữu bị giảm từ 10% trở lên; tăng, giảm vốn điều lệ; quyết định đầu tư vào một
tổ chức, dự án;…


12

Công bố thông tin theo yêu cầu: là những thông tin công bố theo yêu cầu của Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước, Sở GDCK nơi tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch, được
thực hiện trong trường hợp:
-

Xảy ra sự kiện ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.



Kịp thời

Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời, đúng hoặc
trước thời hạn qui định, không được chậm trễ. Chẳng hạn công ty đại chúng phải công
bố báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tổ


13

chức kiểm toán ký báo cáo kiểm toán nhưng không vượt quá 90 ngày, kể từ ngày kết thúc
năm tài chính.
2.4

Sự cần thiết của công bố thông tin

Ngày nay, trên thế giới việc CBTT ngày càng phổ biến và được quan tâm vì quyền
lợi của cổ đông và các bên có liên quan. Phản ánh sự đánh giá của xã hội đối với ngân
hàng, cho nên việc CBTT sẽ ảnh hưởng đến giá chứng khoán niêm yết và các lợi ích
cụ thể đối với từng đối tượng như sau:
 Đối với nhà quản lý thị trường (SGDCK): là công cụ giúp SGDCK đưa ra thông
tin công bố kịp thời, từ đó đánh giá hiệu quả hoạt động, giám sát quá trình phát triển
của các ngân hàng, gián tiếp tác động ngược lại trong công tác quản lý, có thể điều
chỉnh các hoạt động như cho phép hay hủy bỏ niêm yết, khen thưởng, xử lý vi phạm,
là kênh thông tin phục vụ công tác giám sát và quản lý thị trường.
 Đối với nhà đầu tư: việc CBTT có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo lập
và duy trì niềm tin cho công chúng. Sự sụp đổ của một số quốc gia và các vụ gian lận
được phát hiện đã cảnh tỉnh giới đầu tư về tầm quan trọng của CBTT, các nhà đầu tư
tiếp cận thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác, công bằng và ít gian lận. Thông

Nhà quản lý có thuận lợi hơn trong việc nắm giữ thông tin, còn chủ sở hữu, nhà đầu
tư khó khăn hơn trong việc có được thông tin về hoạt động của công ty và giám sát
nhà quản lý. Các chủ sở hữu tăng cường báo cáo làm tăng chi phí. Việc CBTT tự
nguyện của các nhà quản lý sẽ giúp giảm chi phí cơ quan, giảm sự bất cân xứng thông
tin. Nhà quản lý có cùng mục tiêu vì lợi ích, và nhà quản lý đại diện cổ đông để quản
lý, điều hành công ty nhằm đạt được mục tiêu chung. (Meek và cộng sự, 1995; Chau
và Gray, 2002).
Lý thuyết này được sử dụng để giải thích sự ảnh hưởng của các nhân tố như: qui mô
công ty, kết quả hoạt động kinh doanh, hiệu quả sử dụng tài sản, tỷ suất đòn bẩy tài
chính và cơ cấu HĐQT.
2.5.2

Lý thuyết tín hiệu

Lý thuyết này xuất phát từ sự bất cân xứng thông tin của lý thuyết chi phí đại diện,
thông tin không có sẵn và nhà quản lý nắm giữ nhiều thông tin hơn, các quyết định
tài chính của công ty sẽ là dấu hiệu được truyền ra thị trường để nhà đầu tư xem xét,
ra quyết định, đánh giá đúng về tình hình hoạt động của công ty. Ross (1977) nhận
xét: khi công ty hoạt động hiệu quả sẽ CBTT tốt hơn, các nhà quản lý sử dụng các
quyết định tài chính để xem xét phản ứng của thị trường, là công cụ để truyền tín hiệu



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status