Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và các yếu tố liên quan - Pdf 48

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------------

Lê Thị Hồng

TÌNH TRẠNG SUY DINH DƢỠNG Ở TRẺ
DƢỚI 5 TUỔI VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Chuyên ngành: Điều Dưỡng
Mã số: 60.72.05.01

Luận văn Thạc sĩ Điều Dưỡng

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM LÊ AN
TS. KATHY FITZSIMMONS

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
kết quả trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả

Lê Thị Hồng


4.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu ................................................... 70
4.2. Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ ........................................................ 76
4.3. Mối liên quan giữa đặc điểm cá nhân của mẹ và trẻ; tình trạng trước
sinh; nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung; thực hành chăm sóc trẻ; kiến
thức về suy dinh dưỡng và tình trạng suy dinh dưỡng ................................ 79
4.4. Mối quan hệ giữa gia đình và trường mầm non về tình trạng dinh dưỡng
của trẻ ........................................................................................................... 89
4.5. Những hạn chế và tính ứng dụng của đề tài ......................................... 93
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

HAZ

Height-for-Age Zscore (Chỉ số Z-score chiều cao/tuổi)

NCHS

National Center for Health Statistics (Trung tâm Thống kê sức
khỏe quốc gia Mỹ)

PCSDD

Phòng chống suy dinh dưỡng

SD

Viện dinh dưỡng

WAZ

Weight-for-Age Zscore - Chỉ số Z-score cân nặng/tuổi

WHO

World Health Organization (Tổ chức y tế thế giới)

WHZ

Weight-for-Height Zscore - Chỉ số Z-score cân nặng/chiều cao


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 Phân loại suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi theo các chỉ số z-score7
Bảng 1.2 Đánh giá mức độ suy dinh dưỡng ở trong cộng đồng ....................... 7
Bảng 1.3 Tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi theo 6 vùng sinh thái năm 2014 . .... 16
Bảng 3.1 Đặc điểm cá nhân của trẻ ................................................................. 39
Bảng 3.2 Đặc điểm cá nhân của bà mẹ ........................................................... 39
Bảng 3.3 Bảng phân bố mẫu nghiên cứu về tình trạng trước sinh .................. 41
Bảng 3.4 Bảng phân bố mẫu nghiên cứu về nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ
sung ................................................................................................................. 43
Bảng 3.5 Bảng phân bố mẫu nghiên cứu về thực hành chăm sóc trẻ ............. 44
Bảng 3.6 Bảng phân bố mẫu nghiên cứu kiến thức về suy dinh dưỡng ......... 45
Bảng 3.7 Tỷ lệ suy dinh dưỡng các thể nhẹ cân, thấp còi, gầy còm ............... 46
Bảng 3.8 Tỷ lệ suy dinh dưỡng phân bố theo giới .......................................... 47
Bảng 3.9 Tỷ lệ SDD của trẻ theo nhóm tuổi ................................................... 47
Bảng 3.10 Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân của trẻ và tình trạng suy

Hình 1.3 Diễn biến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc .......... 15
Hình 1.4 Mô hình lý thuyết Urie Bronfenbrenner .......................................... 21
Hình 1.5 Khung lý thuyết Urie Bronfenbrenner ứng dụng trong nghiên cứu 22
Hình 2.1 Sơ đồ nghiên cứu.............................................................................. 38


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của cả người lớn
và trẻ em. Đặc biệt, trong giai đoạn đầu đời, dinh dưỡng không những ảnh
hưởng đến thể chất như cân nặng, chiều cao, hệ miễn dịch mà còn tác động
lâu dài đến sức khỏe và phát triển trí tuệ của trẻ khi trưởng thành. Do đó, việc
cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho trẻ là cần thiết.
Suy dinh dưỡng ở trẻ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bên cạnh những
nguyên nhân trực tiếp như thiếu ăn về số lượng, không đảm bảo chất lượng và
mắc các bệnh nhiễm khuẩn [18], [32], [44] thì những nguyên nhân khác như
sự bất cập trong dịch vụ chăm sóc bà mẹ trẻ em, kiến thức chăm sóc của
người nuôi trẻ, điều kiện vệ sinh môi trường và nước sạch cũng góp phần
đáng kể dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng [25], [51]. Ngoài ra, những yếu tố
về kinh tế xã hội như tình trạng đói nghèo lạc hậu và bất bình đẳng về kinh tế
cũng là những nguyên nhân đáng lưu tâm hiện nay [18].
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi khác nhau theo lứa tuổi. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng ở nhóm trẻ dưới 6 tháng tuổi là
thấp nhất đối với cả 3 thể (thể nhẹ cân, thể thấp còi, thể gầy còm), sau đó tăng
nhanh vào thời kỳ trẻ 6-24 tháng tuổi, là thời kỳ trẻ có nguy cơ bị suy dinh
dưỡng cao hơn do đây là thời kỳ trẻ cai sữa, ăn dặm có nhiều ảnh hưởng đến
lượng thức ăn hấp thụ được của trẻ và cũng là thời kỳ trẻ có nhu cầu dinh
dưỡng rất cao. Sức miễn dịch tự nhiên giảm, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm
hơn và mẹ bắt đầu đi làm cũng là những lý do dẫn đến tỷ lệ suy dinh dưỡng

5 tuổi xuống dưới 26%, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân dưới 15% vào năm
2015 và tiếp tục giảm các tỷ lệ này lần lượt còn dưới 23% và dưới 12,5% vào
năm 2020 [1]. Đồng thời tăng cường đề xuất chính sách hỗ trợ dinh dưỡng
học đường trước hết là lứa tuổi mầm non và tiểu học. Đặc biệt là lứa tuổi
mầm non, một trong những giai đoạn tăng trưởng và phát triển quan trọng,
làm nền tảng cho sự phát triển của trẻ về sau [1].
Thanh Hóa là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, thống kê của Viện Dinh dưỡng
năm 2014 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi như sau: thể nhẹ


3

cân là 18,5%, thể thấp còi là 28,9%, thể gầy còm là 7,1%, tỷ lệ này còn khá
cao so với tỷ lệ chung của toàn quốc với tỷ lệ của 3 thể nhẹ cân, thấp còi, gầy
còm lần lượt là 14,5%, 24,9%, 6,8% [35]. Mặc dù số liệu suy dinh dưỡng
được thống kê hằng năm, tình trạng kinh tế có cải thiện, nhận thức người dân
về dinh dưỡng đã được nâng cao nhưng có rất ít nghiên cứu tiến hành về hiện
trạng suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại Thanh Hóa và các yếu tố liên
quan. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Tình trạng suy dinh dƣỡng ở
trẻ dƣới 5 tuổi và các yếu tố liên quan” dựa trên lý thuyết của Urie
Bronfenbrenner nhằm xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng và các yếu tố ảnh hưởng
tới suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi, để từ đó đề xuất những giải pháp thích
hợp góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi tại 3 trường mầm non thuộc huyện
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa là bao nhiêu?
Có mối liên quan giữa đặc điểm cá nhân của mẹ và trẻ; tình trạng trước
sinh; nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung, thực hành chăm sóc trẻ và kiến
thức về suy dinh dưỡng của bà mẹ và tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ
không?

Suy dinh dưỡng (SDD) là tình trạng cơ thể thiếu protein, năng lượng và
các vi chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở nhiều
mức độ khác nhau nhưng ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh
thần và vận động của trẻ. SDD protein năng lượng thường kèm theo là các
bệnh nhiễm khuẩn.
Về hình thái, những trường hợp SDD nặng hay gặp nhất là SDD thể teo
đét (Marasmus), đó là hậu quả của một chế độ ăn thiếu cả năng lượng và
protein. SDD thể phù (Kwashiorkor) ít gặp hơn thể teo đét, thường là do chế
độ ăn quá nghèo protit nhưng tạm đủ các chất glucid. Ngoài ra có thể phối
hợp giữa Marasmus và Kwashiorkor [46]. Nguyên nhân SDD thường phức
tạp và có các đặc điểm của mỗi nước. Nghiên cứu các đặc điểm đó dựa và các


5

chỉ tiêu thích hợp là công việc cần thiết để xây dựng các can thiệp dự phòng
và điều trị thích hợp [3].
1.2. Đánh giá và phân loại tình trạng dinh dƣỡng ở trẻ em
1.2.1. Đánh giá tình trạng dinh dƣỡng trẻ em theo các chỉ số z-score
Có nhiều chỉ số nhân trắc để đánh giá tình trạng SDD ở trẻ em. Đó là các
chỉ số chiều cao, cân nặng, chu vi cánh tay, nếp gấp cơ tam đầu và nhị đầu,
vòng đầu. Tuy nhiên phổ biến nhất vẫn là các chỉ số chiều cao và cân nặng
của trẻ. Theo đó, các số đo chiều cao, cân nặng của trẻ sẽ được sử dụng để
tính toán các chỉ số cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo
chiều cao [59].
Để xác định tỷ lệ SDD của trẻ em trong một quần thể, người ta so sánh
các chỉ số nói trên với các chỉ số tương ứng của quần thể chuẩn. Năm 2006
Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) đã chính thức khuyến cáo sử dụng quần thể
chuẩn (WHO Child Growth Standards) để đánh giá TTDD của trẻ, thay thế
cho quần thể NCHS (National Center for Health Statistics) đã được sử dụng

quần thể tham khảo.
Chỉ số chiều cao theo tuổi (HAZ) phản ánh tiền sử dinh dưỡng. Chiều cao
theo tuổi thấp phản ánh TTDD kéo dài hoặc thuộc về quá khứ làm cho trẻ bị
còi. Chỉ số WHZ được sử dụng để đo lường SDD mạn tính ở trẻ. Khi chỉ số
HAZ dưới -2 độ lệch chuẩn so với quần thể tham khảo được định nghĩa là
thấp còi.
Chỉ số cân nặng theo chiều cao (WHZ) phản ánh TTDD hiện tại. Chỉ số
WHZ được sử dụng để đo lường SDD cấp tính ở trẻ và chỉ số này có thể thay
đổi rất nhanh. Một trẻ được gọi là gầy còm khi chỉ số WHZ dưới -2 độ lệch


7

chuẩn so với quần thể tham khảo [26], [59]. Tỷ lệ gầy còm được quan sát rõ
nhất khi xảy ra các nạn đói, mất mùa hoặc những bệnh nặng.
1.2.2. Đánh giá tình trạng dinh dƣỡng cá nhân và quần thể
1.2.2.1. Đánh giá tình trạng dinh dƣỡng cá nhân
Bảng 1.1 Phân loại suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi theo các chỉ số z-score
[26].
Z-score

WAZ

HAZ

Trên 2

WHZ
Thừa cân, béo phì


Thấp

Trung bình

Cao

Rất cao

Thấp còi

< 20

20-29

30-39

 40

Nhẹ cân

< 10

10-19

20-29

 30

Gầy còm


về tinh thần và thể chất và ảnh hưởng xấu tới sức khỏe [56]. Ở Việt Nam, một
số điều tra về thiếu máu do thiếu sắt ở trẻ em tại một số vùng nông thôn (Sóc
Sơn, ngoại thành Hà Nội) của tác giả Lê Thị Hợp [49] cho thấy tỷ lệ thiếu
máu ở trẻ em Việt Nam vẫn còn ở mức rất cao.
Vòng xoắn giữa bệnh nhiễm trùng và SDD đã gây nên hậu quả tình trạng
SDD càng nặng thêm. Người ta ước đoán nhiễm trùng ảnh hưởng đến 30% sự
giảm chiều cao của trẻ. Tỷ lệ SDD của trẻ tăng lên rõ rệt vào những mùa có
các bệnh nhiễm trùng ký sinh trùng như tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp, sốt
rét [32].
Tiêu chảy làm cho trẻ mất nước và một số chất dinh dưỡng quan trọng
như kẽm và đồng. Nếu không được bù nước và các chất dinh dưỡng này, trẻ
có thể bị mất nước nghiêm trọng, SDD, chậm tăng trưởng và tử vong trong
các trường hợp nguy hiểm. Trong một nghiên cứu theo chiều dọc ở Philippin,
trẻ em được theo dõi từ khi sinh ra cho đến 24 tháng tuổi, người ta thấy tác
động tích lũy của nhiễm khuẩn đường hô hấp kèm theo sốt đến nguy cơ SDD
thấp còi cũng tương tự như tác động của bệnh tiêu chảy. Có mối quan hệ “liều
đáp ứng” giữa gánh nặng tiêu chảy tích lũy (ví dụ như số ngày bị tiêu chảy)
và khả năng bị thấp còi lúc 24 tháng tuổi [44]. Một nghiên cứu bệnh chứng
được tiến hành ở trẻ dưới 36 tháng tuổi tại một số tỉnh miền Bắc cũng cho
thấy trẻ bị tiêu chảy có nguy cơ thấp còi cao hơn 1,5 lần trẻ không bị tiêu
chảy [14].
1.3.2. Nguyên nhân tiềm tàng
Do sự bất cập trong dịch vụ chăm sóc bà mẹ trẻ em, kiến thức chăm sóc
của người nuôi trẻ, nước sạch, vệ sinh môi trường.


10

Người ta thấy rằng tình trạng thiếu dịch vụ chăm sóc y tế, vệ sinh môi
trường kém, không có hệ thống nước sạch, dẫn đến bệnh tật phát sinh và

hội cũng ảnh hưởng đến tình trạng SDD như phong tục tập quán lạc hậu làm
cho đời sống sinh hoạt lạc hậu, kiêng khem quá mức, coi thường ngược đãi
phụ nữ trẻ em, các hiểu biết về khoa học y tế chăm sóc sức khỏe thấp kém dẫn
đến cuộc sống phó mặc vào tự nhiên, làm tác động xấu đến đời sống sức khỏe
mà bà mẹ trẻ em là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khỏe bệnh tật
phát sinh và dẫn đến bị SDD và tử vong. Khủng hoảng kinh tế làm cho việc
đảm bảo an ninh lương thực và khả năng cung cấp các dịch vụ y tế dinh
dưỡng tại các nước đang phát triển càng trở nên khó khăn [18].
1.4. Tình hình suy dinh dƣỡng ở trẻ em
1.4.1. Trên thế giới
Từ 576 cuộc điều tra đại diện của các quốc gia và vùng lãnh thổ trong giai
đoạn 1990 đến 2010 cho thấy năm 1990 trên thế giới tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị
SDD thể thấp còi chiếm khoảng 40% tương ứng là 253,1 triệu trẻ. Vùng châu
Mỹ La tinh và Caribe là 24,6% (13,7 triệu). Tỷ lệ SDD thấp còi châu Á năm
1990 là 48,4% (188,7 triệu); các quốc gia đang phát triển là 44,6% (248,4
triệu); các quốc gia phát triển 6,1% (4,7 triệu). Đến năm 2010 trên toàn cầu,
thấp còi ở trẻ em đã giảm từ 39,7% xuống còn 26,7%. Xu hướng này dự kiến
sẽ còn 21,8% vào năm 2020. Tuy nhiên, mức độ giảm tỷ lệ SDD thấp còi có
sự khác nhau rõ rệt giữa các khu vực. Ở châu Phi tỷ lệ thấp còi hầu như ít thay
đổi. Sau 20 năm, tỷ lệ SDD thấp còi vẫn dao động trong mức 40%, trong khi
đó châu Á có những chuyển biến mạnh mẽ, giảm đáng kể tỷ lệ SDD thấp còi
từ 49% năm 1990 xuống còn 28% trong năm 2010. Tuy nhiên, ở đa số các
nước đang phát triển, thấp còi vẫn còn là một vấn đề có ý nghĩa sức khỏe
cộng đồng trong giai đoạn hiện nay [42], [43]. Khoảng 80% trẻ dưới 5 tuổi
thấp còi trên thế giới nằm ở 14 quốc gia trong đó 4 nước là Đông Timor,
Burundi, Niger và Madagascar có tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi thấp còi cao nhất


12



nhưng số lượng sẽ tăng từ 44 triệu trẻ năm 2000 lên 48 triệu vào năm 2020 do
tăng dân số. Ở Châu Á, Châu Mỹ Latinh và Carribe, cả tỷ lệ và số lượng trẻ
SDD thể thấp còi sẽ tiếp tục giảm trong cùng một chu kỳ thời gian. Nhưng
trong khi tỷ lệ SDD thấp còi đang giảm chậm thì sự gia tăng số trẻ em dưới 5
tuổi trong các nước kém phát triển đã làm cho số lượng trẻ em bị thấp còi
trong nước kém phát triển giảm chậm hơn so với tỷ lệ [42], [57].
1.4.2. Ở Việt Nam
SDD protein năng lượng ở trẻ em vẫn đang là một thách thức đối với công
tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Với những định hướng chiến lược Quốc
gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 cùng sự chung tay của cộng đồng đã
yêu cầu giảm tỷ lệ SDD là một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển
kinh tế, xã hội [1].
Tỷ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 59,7% năm 1985
xuống 56,5% năm 1990 và 36,5% năm 2000, đến năm 2005 tỷ lệ SDD
thể thấp còi là 29,6% (theo quần thể tham chiếu NCHS). Tuy nhiên kết quả
cho thấy tỷ lệ SDD thể thấp còi thay đổi 31,9% năm 2009 và 29,3% năm 2010
[34] (do từ năm 2006 sử dụng quần thể tham chiếu của WHO [59]). Nếu như
năm 1999, tỷ lệ SDD nhẹ cân và thấp còi không có sự khác biệt đáng kể thì
sau hơn 1 thập kỷ, 2 tỷ lệ này có sự chênh lệch rất rõ ràng. Từ năm 1999 đến
năm 2010 trong cả nước tỷ lệ SDD thể nhẹ cân giảm xuống một cách bền
vững từ 36,7% xuống còn 17,5%, đến năm 2014 là 14,5%. Tuy nhiên tỷ lệ
SDD thể thấp còi giảm chậm hơn từ 38,7% năm 1999 xuống 29,6% năm
2005. Đến năm 2006 và 2007 tỷ lệ SDD thấp còi tăng lên 31,9% và 33,9% là
do thay đổi việc áp dụng chuẩn từ quần thể tham khảo của Mỹ sang áp dụng
chuẩn của WHO năm 2006 và tiếp tục giảm xuống 29,3% năm 2010 và đến
năm 2014 là 24,9% [36].


14


16

còi cao nhất là ở vùng Tây nguyên (35,2%), Miền núi và Trung du phía Bắc
(33,7%), Bắc miền Trung và ven biển miền Trung (31,4%). Thấp nhất ở đồng
bằng sông Hồng (25,5%) và Đông Nam Bộ (19,2%). Một số tỉnh miền núi
phía Bắc có tỷ lệ SDD cao như Lào Cai 40,7%, Hà Giang 38%, Cao Bằng
35% [34]. Đến năm 2014, tỷ lệ thể thấp còi có giảm nhưng vẫn còn sự khác
biệt giữa các vùng [35]. Đặc biệt, tại các khu vực vùng sâu, vùng xa, khu dân
tộc thiểu số tỷ lệ SDD thấp còi rất cao, có thể lên tới 60% trong nghiên cứu
của Nguyễn Thị Thi Thơ và cộng sự [29] tại huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
Nghiên cứu của Trần Thị Lan [20] ở nhóm tuổi 12-36 tháng dân tộc Pako và
Vân Kiều ở Quảng Trị cũng cho biết tỷ lệ SDD thấp còi chiếm tới 66,5%.
Như vậy, mặc dù tỷ lệ SDD thấp còi chung ở nước ta hiện nay được đánh giá
ở mức trung bình theo khuyến nghị của WHO nhưng cá biệt vẫn còn những
vùng có tỷ lệ thấp còi ở mức cao và rất cao. Sự khác biệt về tỷ lệ SDD giữa
các vùng miền là rất rõ ràng.
Bảng 1.3 Tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi theo 6 vùng sinh thái năm 2014 [35]
Tỉnh, thành phố

Nhẹ cân

Thấp còi

Gầy còm

(%)

(%)


6,7

Tây Nguyên

22,6

34,9

7,8

Đông Nam Bộ

8,4

18,3

5,4

Đồng bằng sông Cửu Long

13

24

6,8

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung


17


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status