Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân từ thực tiễn tại toà án nhân dân huyện yên châu, tỉnh sơn la - Pdf 48

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THUỘC THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA
DƯƠNG THÁI SƠN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS TRẦN QUANG HUY

HÀ NỘI - 9/ 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Sau Đại học xem xét để tôi được
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Dương Thái Sơn




ANTT

: An ninh trật tự

BNV

: Bộ Nội Vụ

CT-TTg

: Chị Thị - Thủ tướng Chính Phủ

CP

: Chính Phủ

TANDTC

: Tòa án hân dân Tối cao

TC

: Tài chính

TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC : Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và Tổng cục đại chính
QĐSDĐ

: Quyết định sử dụng đất

1.2.3.4. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa ........................................ 15
1.3. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp đất đai ....................................................... 15
1.3.1. Nguyên nhân khách quan ............................................................................. 15
1.3.2. Nguyên nhân chủ quan ................................................................................ 16
1.4. Tác động của tranh chấp đất đai tới đời sống kinh tế - xã hội .......................... 20


1.4.1. Về mặt kinh tế ............................................................................................. 20
1.4.2. Về mặt chính trị ........................................................................................... 20
1.4.3. Về mặt xã hội .............................................................................................. 21
1.5. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
ở nước ta ............................................................................................................... 21
1.5.1. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai trước khi ban
hành Hiến pháp 1980 ............................................................................................. 22
1.5.2. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai sau khi Hiến pháp
1980 được ban hành .............................................................................................. 23
1.5.2.1. Giai đoạn từ 1980 – 1992 .......................................................................... 23
1.5.2.2. Giai đoạn từ 1992 đến nay ........................................................................ 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI QUA
THỰC TIỄN Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU .......................... 27
2.1 Khái quát tình hình quản lý, sử dụng đất đai và tranh chấp đất đai trên địa bàn
huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La ................................................................................ 27
2.1.1. Khái quát chung về huyện Yên Châu. .......................................................... 27
2.1.2. Đánh giá chung về tình hình quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn huyện
Yên Châu .............................................................................................................. 29
2.2. Khái quát về tranh chấp đất đai của huyện Yên Châu...................................... 30
2.2.1. Việc giải quyết tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân .............................. 30
2.2.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân ......................... 37
2.2.2.1. Cơ sở pháp lý của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án ................. 37
2.2.2.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai tại toà án trên địa bàn huyện Yên

đai là nguồn tài nguyên có hạn và cố định về vị trí. Do vậy việc sử dụng phải theo
quy hoạch và kế hoạch. Nước ta xuất phát là một nước nông nghiệp lạc hậu đang
từng bước xây dựng một xã hội công nghiệp hiện đại. Đa phần dân số nước ta lao
động chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, chính vì lý do này mà vai trò của đất đai lại
càng đặc biệt quan trọng.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhất là những năm gần
đây việc quản lý về đất đai đã trở thành vấn đề bức bách được toàn xã hội quan tâm.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về vấn đề này. Hệ thống các văn
bản pháp luật đất đai ngày càng được sửa đổi, bổ sung và dần hoàn thiện trong công
tác quản lý và sử dụng đất đai; Từng bước tháo gỡ được các khó khăn, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn đề ra. Tạo những quy định mới trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất; giao đất, cho thuê đất; bồi thường, hỗ trợ tái định cư…; Tạo nhiều thuận lợi cho
người sử dụng đất như quy định hạn mức sử dụng đất nông nghiệp; Quy định rõ các
quyền về bồi thường, hỗ trợ tái định cư; tạo được sự bình đẳng đối với quyền lợi
của người sử dụng đất (bao gồm cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nước cũng
như cá nhân, tổ chức nước ngoài). Đồng thời ngày càng quy định chặt chẽ hơn trong
khâu quản lý, sử dụng đất, đặc biệt là hạn chế giao đất có thu tiền, cơ bản chuyển
sang cho thuê đất đối với đất phi nông nghiệp và mở rộng hình thức đấu giá quyền
sử dụng đất.
Luật Đất đai năm 2013 đã đi vào thực tiễn cuộc sống, tạo sự chuyển biến tích
cực trong công tác quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn; Công tác giao đất, thu
hồi đất, nhất là đối với dự án có sử dụng đất lúa, đất rừng được thực hiện chặt chẽ,
đúng quy định; tình trạng dự án treo, chậm tiến độ cơ bản được khắc phục; quyền

1


lợi của người sử dụng đất trong vùng quy hoạch được đảm bảo; một số khó khăn,
vướng mắc trong công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản gắn liền với đất tiếp tục được tháo gỡ để đảm bảo quyền lợi chính

một số khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ,
công chức... Về nội dung tố cáo, chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính
sách, tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất đai, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản,
thực hiện chính sách xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm trong việc
giải quyết khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm pháp luật.
Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ quan ở Trung ương nhiều, nội dung
thể hiện tính bức xúc gay gắt, không chấp nhận với cách giải quyết của chính quyền
địa phương. Số lượng công dân đến khiếu nại trực tiếp tại phòng tiếp công dân của
các địa phương, các cơ quan ở Trung ương hàng năm cao. Nhiều vụ việc công dân
tụ tập thành đoàn, đi xe, căng cờ, biểu ngữ... kéo đến các cơ quan chính quyền,
Đảng,… nhằm gây áp lực đòi được giải quyết quyền lợi theo yêu cầu. Số lượng
công dân tập trung đông chủ yếu ở các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Quốc hội, Đại
hội Đảng, có nơi công dân tập trung huy động thương binh, phụ nữ, người già, trẻ
em bao vây trụ sở chính quyền xã, huyện, tỉnh, doanh nghiệp gây mất trật tự, an
toàn xã hội.
Việc giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan hành chính và Tòa án
nhân dân trong những năm qua vẫn còn có những vướng mắc chưa thống nhất. Có
nhiều vụ phải xử đi, xử lại nhiều lần, kéo dài trong nhiều năm, phát sinh khiếu kiện
kéo dài và làm giảm lòng tin của người dân đối với đường lối, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Sơn La là một trong những tỉnh có diện tích đất tự nhiên lớn (1.405,500 ha),
có thủy điện Sơn La lớn nhất nước và đang trên đường xây dựng Công nghiệp hóa hiện đại hóa. Song hành với vấn đề trên là việc giải quyết tranh chấp đất đai, bồi
thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư trong địa bàn tỉnh trong đó có huyện
Yên Châu đang là vấn đề nhức nhối cần huy động mọi ban ngành đoàn thể, chính
quyền địa phương các cấp tham gia cùng giải quyết.
Huyện Yên Châu là huyện biên giới có diện tích đất tự nhiên đứng thứ 6/12
trong toàn tỉnh. Có số lượng người tái định cư do giải phóng mặt bằng xây dựng

3

của loài người”.
Ở phương diện môi trường - địa lý thì đất đai là địa bàn phân bố dân cư, sinh
sống của con người, là một trong những yếu tố cơ bản của môi trường sống, là nền
tảng duy trì, bảo tồn, phát triển hệ sinh thái.
Chính vì tầm quan trọng không thể thay thế được của đất đai nên nhu cầu sử
dụng đất của con người ngày càng cao. Vì vậy, Nhà nước phải sử dụng pháp luật để
điều chỉnh các quan hệ liên quan đến đất đai nhằm tạo môi trường pháp lý lành
mạnh cho hoạt động khai thác và sử dụng đất đạt hiệu quả cao, hợp lý, công bằng,
đúng pháp luật.
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng phổ biến trong đời sống xã hội, tồn tại
qua nhiều thời kì lịch sử khác nhau. Ở nước ta hiện nay, theo quy định của Hiến
pháp thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Các
tranh chấp đất đai hiện nay chủ yếu mang tính kinh tế và ý nghĩa chính trị nhất định.
Việc giải quyết các tranh chấp đất đai sẽ do các bên tự thương lượng, hoà giải hoặc
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện dựa trên các quy định của pháp
luật. Khác với các tranh chấp đất đai trong xã hội có đối kháng giai cấp, chủ yếu
mang màu sắc chính trị, đất đai trở thành đối tượng tranh chấp giữa bóc lột và giai
cấp bị bóc lột. Việc giải quyết các tranh chấp đất đai được thực hiện bằng con
đường cách mạng xã hội.

6


Hiện nay, ở nước ta có lẽ không có lĩnh vực nào mà các khiếu kiện, khiếu
nại, tranh chấp nhiều như lĩnh vực đất đai. Trong nền kinh tế thị trường, đất đai
càng chứng tỏ vai trò quan trọng của mình, trở thành một tài sản có giá trị lớn nên
các tranh chấp liên quan đến đất đai ngày càng nhiều cũng là điều dễ lý giải.
Khi tham gia vào một mối quan hệ pháp luật nào đó, không phải lúc nào các
chủ thể cũng có thể thống nhất với nhau, khi xuất hiện những bất đồng ý kiến,
những mâu thuẫn thì những người trong quan hệ pháp luật đó sẽ có những hành

Thứ hai, chủ thể của tranh chấp đất đai chỉ có thể là chủ thể trong quá trình
quản lý, sử dụng đất đai mà không phải là chủ thể quyền sở hữu. Quyền của các bên
tham gia tranh chấp được thể hiện thông qua quyết định giao đất, cho thuê đất của
Nhà nước hoặc nhận chuyển nhượng, thừa kế, thuê lại hoặc được Nhà nước công
nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, chủ thể của tranh chấp đất đai là tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư... với tư cách là người quản lý hoặc sử dụng đất.
Thứ ba, nội dung của các tranh chấp mang giá trị kinh tế cao, giá đất biến
đổi theo nhu cầu thị trường ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Trong nền kinh tế
thị trường đất đai càng thể hiện vai trò quan trọng của mình – trở thành một loại
hàng hoá không thể thay thế, mang giá trị kinh tế cao, giá đất biến đổi theo nhu cầu
thị trường. Chính vì vậy, việc quản lý, sử dụng đất đai không chỉ là khai thác giá trị
của đất mà còn làm cho đất đai sinh lời. Khi việc quản lý, sử dụng đất mang lại giá
trị cao, phong phú hơn thì những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh đó càng trở nên
gay gắt, trầm trọng hơn.
Thứ tư, tranh chấp đất đai xảy ra là biểu hiện của những mâu thuẫn, bất
đồng về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sử dụng đất. Tranh chấp đất đai không chỉ
ảnh hưởng đến các chủ thể sử dụng đất mà còn ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước và
xã hội, gây mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, mất ổn định an ninh chính trị...
1.1.3.Các loại tranh chấp liên quan đến đất đai
Trải qua những thời kì lịch sử khác nhau, các quy định của pháp luật về đất
đai cũng thay đổi theo. Trước khi Hiến pháp 1980 ra đời thì nước ta thừa nhận

8


nhiều hình thức sở hữu đối với đất đai: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân... [24]. Vì vậy, các tranh chấp liên quan đến đất đai giai đoạn trước 1980 bao
gồm các tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt.
Sau khi Hiến pháp 1980 được ban hành thì đất đai trở thành sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Vì vậy, các tranh chấp đất đai hiện nay chỉ bao

đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã với nhau.
Thứ hai, tranh chấp quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất.
Tranh chấp này phát sinh do một trong các bên có hành vi vi phạm làm cản trở việc
thực hiện quyền sử dụng đất hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
bên còn lại hoặc do các bên không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
Loại tranh chấp này bao gồm các dạng sau:
- Tranh chấp do quyền sử dụng đất bị cản trở. Khi một bên được Nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất nhưng lại không thực hiện được quyền hợp pháp của
chủ thể sử dụng do bị người khác cản trở.
- Tranh chấp trong quá trình thực hiện các giao dịch liên quan đến đất đai.
Đây là loại tranh chấp phổ biến hiện nay và ngày càng phức tạp, gay gắt hơn.
- Tranh chấp về vấn đề bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu
hồi đất. Đây cũng là một trong những loại tranh chấp điển hình và phức tạp, ngày
càng diễn ra gay gắt hơn.
Thứ ba, tranh chấp về tài sản có liên quan đến quyền sử dụng đất.
Thứ tư, tranh chấp về mục đích sử dụng đất. Các tranh chấp này cũng đang
ngày càng tăng, đó là tranh chấp giữa việc sử dụng đất vào mục đích trồng lúa hay
nuôi trồng thuỷ hải sản; trồng cây công nghiệp lâu năm hay cây công nghiệp hàng
năm...
1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai, các yếu tố chi phối việc giải quyết
tranh chấp đất đai và nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai

10


Trải qua các thời kì phát triển khác nhau, tranh chấp đất đai đã trở thành một
hiện tượng thường xuyên xảy ra trong đời sống con người. Khi xảy ra tranh chấp thì
việc giải quyết tranh chấp là vô cùng cần thiết.
Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm

thay vì chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì nhiều trường hợp người dân cho rằng
là đất của mình nên mua, bán đất mà không làm thủ tục theo quy định, sau đó người
nhận chuyển nhượng xây dựng hoặc đất tăng giá trị... thì các bên lại phát sinh tranh
chấp. Hoặc do tư tưởng trọng nam khinh nữ dẫn đến quyền lợi của phụ nữ trong gia
đình không được đảm bảo khi phân chia thừa kế làm phát sinh tranh chấp.
Thứ hai, do những thay đổi trong chính sách, pháp luật về đất đai. Có thể
nói, ở nước ta, đất đai là một trong những lĩnh vực thường xuyên có sự thay đổi về
chính sách phát luật nhất, nhiều văn bản hướng dẫn thi hành nhất. Việc thay đổi
những quy định của pháp luật cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống đã góp phần
khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết các tranh chấp đất
đai. Bên cạnh đó, việc thay đổi thường xuyên, ban hành quá nhiều những văn bản
pháp luật về đất đai cũng là một trở ngại đối với các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai và người dân trong việc cập nhật thông tin để
giải quyết cho đúng quy định của pháp luật hoặc có thể đang giải quyết vụ việc theo
quy định này thì đã có văn bản mới hướng dẫn khác... dẫn đến trường hợp giải
quyết sai quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc ban hành nhiều văn bản dễ dẫn đến
chồng chéo, mâu thuẫn nhau, khó áp dụng trong thực tiễn.
1.2.3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai là hệ thống các quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo có tác dụng định hướng trong quá trình giải quyết các tranh chấp đất đai.
Việc giải quyết tranh chấp đất đai phải tuân theo một số nguyên tắc sau:
1.2.3.1. Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu

12


Điều 53 Hiến pháp 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài
sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà

ích là mục đích quan trọng mà các bên muốn đạt được. Vì vậy, khi giải quyết các
tranh chấp đất đai thì cần phải dung hoà được lợi ích của các bên, tôn trọng quyền
của người sử dụng đất, tạo điều kiện để họ phát huy tối đa các quyền của mình.
Thực tế đã chứng minh, khi lợi ích của người sử dụng đất không được đảm bảo thì
việc sử dụng đất không thể mang lại hiệu quả cao.
Theo quy định của pháp luật đất đai thì trước khi đưa các tranh chấp đất đai
ra giải quyết tại các cơ quan có thẩm quyền thì các tranh chấp đó phải qua thủ tục
hoà giải và pháp luật khuyến khích các bên tự thương lượng, hoà giải với nhau. Hoà
giải là cách thức cũng là nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai quan trọng, mang
lại hiệu quả cao. Tiết kiệm thời gian, tiền bạc, thể hiện rõ ý chí của các bên, tránh
bất hoà trong nội bộ nhân dân cũng như giảm được áp lực cho các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tranh chấp đất đai.
1.2.3.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai phải nhằm mục đích ổn định
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với
việc tổ chức lại sản xuất, bố trí lại cơ cấu sản xuất hàng hoá
Khi xảy ra tranh chấp đất đai sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề tác động lớn đến
nhiều mặt trong đời sống kinh tế - xã hội, gây căng thẳng các mối quan hệ trong xã
hội, tạo áp lực cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp đất đai phải nhằm mục đích ổn định các mối
quan hệ xã hội, gắn với việc tổ chức lại sản xuất, tạo điều kiện cho lao động ở nông
thôn có việc làm phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước góp phần phát triển các
hoạt động kinh doanh, từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Đồng thời
chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất theo hướng thâm canh, tăng vụ, không ngừng cải tạo
đất. Bố trí, sắp xếp cơ cấu sản xuất hàng hoá theo chủ trương của Đảng: “Ai giỏi
nghề gì, làm nghề ấy”. Với ý nghĩa to lớn đó, khi giải quyết tranh chấp đất đai, các
cơ quan có thẩm quyền cần tuân thủ triệt để nguyên tắc này.

14



gây xáo trộn việc sử dụng ruộng đất của nông dân. Sau khi đất nước thống nhất năm
1975 thì Nhà nước tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời xây dựng hàng
loạt các nông trường, lâm trường... chiếm dụng diện tích đất lớn nhưng sử dụng
kém hiệu quả. Những năm 1977 - 1978 và 1982 – 1983, chúng ta thực hiện chính
sách chia cấp đất theo kiểu “cào bằng” gây xáo trộn lớn về ruộng đất, về ranh giới,
số lượng và mục đích sử dụng đất.
Bên cạnh đó, chiến tranh cũng đã làm thay đổi chủ thể sử dụng đất, ranh giới
đất đai... dẫn tới những tranh chấp giữa người sử dụng đất trước đây (do chạy nạn,
đi chiến đấu...) với người đang sử dụng hợp pháp.
Năm 1980, Hiến pháp thứ 3 được ban hành, thay đổi về chế độ sở hữu đất
đai, từ nhiều hình thức sở hữu sang sở hữu toàn dân đã làm phát sinh nhiều tranh
chấp về việc trưng thu, trưng dụng, thu hối đất. Tình trạng nhập, tách đất đai trong
các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cũng gây ra nhiều tranh chấp đất.
Khi đất nước chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, thay đổi cơ chế quản lý làm cho đất đai ngày càng có giá trị, trở thành một
loại hàng hoá trao đổi trên thị trường theo quy luật cung – cầu, quy luật giá trị... mà
lâu nay không được thừa nhận ở nước ta. Vì vậy, Nhà nước chưa kịp thời có những
chính sách để có thể điều tiết và quản lý có hiệu quả.
Giá trị cao của đất đã tác động tới tâm lý của nhiều người dân dẫn đến tranh
chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho thuê, cho mượn, bị tịch thu hoặc giao
cho người khác sử dụng ... mà không có các văn bản xác định các giao dịch đó.
1.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Về cơ chế quản lý đất đai
Trong cơ chế quản lý trước đây theo hướng tập trung, kế hoạch hoá cao độ.
Nhà nước phân công, phân cấp cho quá nhiều ngành, dẫn đến việc quản lý đất đai
thiếu chặt chẽ, nhiều sơ hở. Có giai đoạn mỗi loại đất do một ngành quản lý (đất
nông nghiệp do ngành nông nghiệp quản lý, đất lâm nghiệp do ngành lâm nghiệp

16


17


xuất, làm xuất hiện tư tưởng đòi lại đất. Chính sách đất đai chưa phù hợp, cậm đổi
mới tạo cơ sở cho việc lấn chiếm diễn ra phổ biến, song chưa được giải quyết và xử
lý kịp thời.
Bên cạnh đó, việc Nhà nước chia, tách, nhập hoặc thành lập các đơn vị hành
chính trong những năm gần đây dẫn đến việc phân chia địa giới hành chính không
rõ ràng cũng là nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp đất đai ngày càng gay gắt,
phức tạp.
Về công tác cán bộ quản lý đất đai và chỉ đạo quản lý đất đai
Lênin đã khẳng định vai trò của cán bộ như sau: “Nghiên cứu con người, tìm
những cán bộ có bản lĩnh hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi
mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng
nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”.
Thực tế hiện nay, có một bộ phận cán bộ được giao nhiệm vụ quản lý đất đai
đã thực hiện không tốt nhiệm vụ được giao, thiếu gương mẫu, lạm dụng chức vụ...
buông lỏng công tác, gây mất ổn định tình hình quản lý, sử dụng đất làm tranh chấp
đất đai phát sinh ngày càng nhiều. Thậm chí, một số cán bộ Đảng viên lợi dụng sơ
hở trong chính sách đất đai của Nhà nước trong thực hiện chủ trương điều chỉnh
ruộng đất, tổ chức lại sản xuất theo cơ chế mới nhằm chiếm dụng đất trái phép, gây
mất ổn định xã hội.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc giải quyết tranh chấp đất đai ở nhiều nơi,
nhiều lúc còn sai sót, chưa triệt để, kiên quyết, dễ bị kẻ xấu lợi dụng gây kích động
trong quần chúng.
Về công tác quản lý nhà nước:
Công tác quản lý nhà nước về đất đai bộc lộ những bất cập, yếu kém, chưa
ngăn chặn được tiêu cực và tham nhũng trong quản lý, sử dụng đất. Việc quản lý đất


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status