Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân - Pdf 48

BỘ GIÁO DỤC ĐẠI
VÀ ĐÀO
HỌCTẠO
QUỐC GIA HÀ NỘI BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA
SƯ PHẠM
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC
LUẬT HÀ NỘI

--------------------

TRẦN NGUYỆT ÁNH

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

Đề tài:

THÔNG QUA TÒA ÁN NHÂN DÂN

Giáo viên hướng dẫn

:

VĂN
SinhLUẬN
viên thực

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Giáo viên hướng dẫn

:

Sinh viên thực hiện

:

Lớp

:

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN

HÀ NỘI - 2015

Hµ néi - 2009


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn của tôi là
PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến – người đã chỉ dẫn, giúp đỡ tôi tận tình để tôi hoàn
thành được công trình nghiên cứu này. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến toàn thể
các thầy, cô giáo, các anh chị cán bộ thư viện và khoa sau đại học Trường Đại học
Luật Hà Nội đã giúp tôi hoàn thành luận văn này. Sau cùng, tôi xin dành lời cảm ơn
những người thân yêu trong gia đình, các cô chú, anh chị đồng nghiệp trong cơ quan

Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt trong luận văn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THÔNG QUA
TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1

Một số vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai

07

1.1.1

Khái niệm tranh chấp đất đai

07

1.1.2

Đặc điểm tranh chấp đất đai

08

1.1.3

Các dạng tranh chấp đất đai


Mục đích, ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua

19

Tòa án nhân dân
1.2.4

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân

20

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THÔNG QUA TÒA ÁN NHÂN
DÂN
2.1

Nội dung các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp

22

đất đai thông qua Tòa án nhân dân
2.1.1

Tranh chấp ai là người có QSDĐ, nhà ở và tài sản gắn liền với đất

23

2.1.2



gắn liền với đất
2.1.7

Tranh chấp về việc bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước

34

thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, thu hồi
đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
2.1.8

Tranh chấp về địa giới hành chính

34

2.1.9

Các tranh chấp về mục đích sử dụng đất

35

2.2.

Các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai

35

thông qua Tòa án nhân dân
2.2.1.

50

đai của Tòa án nhân dân
3.1.2

Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp

51

đất đai của Tòa án nhân dân
3.1.2.1

Một số thuận lợi

51

3.1.2.2

Một số khó khăn

51

3.2

Một số sai lầm trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai của

53

Tòa án nhân dân
3.2.1

56

3.2.2

Sai lầm khi giải quyết một số dạng tranh chấp đất đai thường gặp

57

3.2.2.1

Tranh chấp về QSDĐ, nhà ở và tài sản gắn liền với đất trong quan

58

hệ ly hôn giữa vợ và chồng
3.2.2.2

Tranh chấp về QSDĐ, nhà ở và tài sản gắn liền với đất trong quan

59

hệ thừa kế
3.2.2.3

Tranh chấp trong quan hệ tặng cho QSDĐ, nhà ở và tài sản gắn liền

61

với đất không có hợp đồng
3.2.2.4

65

dạng tranh chấp đất đai và đường lối, phương hướng giải quyết
từng dạng tranh chấp đất đai cụ thể
3.3.1.3

Kiến nghị sửa đổi một số quy định pháp luật về nội dung

65

3.3.1.4

Kiến nghị sửa đổi quy định về vấn đề hòa giải tranh chấp đất đai tại

66

Điều 202 Luật đất đai năm 2013
3.3.2

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai của

67

TAND liên quan đến cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện
3.3.2.1

Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả xét xử của ngành Tòa án nhân

67


trị ban đầu vốn có thì đất đai ngày càng trở nên có giá. Đây là một trong những
nguyên nhân khách quan khiến tranh chấp đất đai không chỉ gia tăng về số lượng
mà còn gia tăng về tính phức tạp, gay gắt về nội dung. Tranh chấp đất đai phát sinh
không chỉ phá vỡ sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình, mối quan hệ đoàn
kết trong nội bộ nhân dân mà còn tiềm ẩn trở thành “điểm nóng” có nguy cơ gây
mất ổn định chính trị - xã hội. Chính vì vậy việc giải quyết tranh chấp đất đai nhanh
chóng, kịp thời, đúng pháp luật và dứt điểm có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra là giải quyết tranh chấp đất đai theo phương thức nào và cơ chế thực
hiện cụ thể ra sao lại không hề đơn giản. Để tránh tình trạng tự giải quyết tranh chấp
đất đai bằng các biện pháp bạo lực, sử dụng “luật rừng” giữa các bên đương sự;
nhiều quốc gia trên thế giới đã thiết lập một cơ quan tài phán là Tòa án với chức
năng làm trọng tài, giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong xã hội. Hệ thống cơ quan
tài phán này là một nhánh quyền lực độc lập với các cơ quan lập pháp và cơ quan
hành pháp nhằm đảm bảo tính độc lập, đưa ra phán quyết công bằng, khách quan và
vô tư. Với việc ra đời mô hình cơ quan tài phán độc lập giải quyết các tranh chấp
nói chung và tranh chấp đất đai nói riêng đã chứng tỏ bước phát triển của nhân loại
trong việc giải quyết hòa bình, văn minh những bất đồng, mâu thuẫn nảy sinh trong
xã hội và đem lại niềm tin cho nhân dân vào công lý, sự nghiêm minh của pháp luật.
Tiếp thu sự tiến bộ của văn minh nhân loại, ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân


2
được thành lập với chức năng phán quyết, xét xử các tranh chấp nói chung và tranh
chấp về đất đai nói riêng. Giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân
không phải là vấn đề mới. Thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về lĩnh vực này, nhiều giải pháp được đưa ra song chất lượng và hiệu quả hoạt
động giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân chưa đáp ứng sự kỳ
vọng của xã hội. Số lượng các phán quyết của tòa án bị tòa án cấp trên hủy bỏ, yêu
cầu xét xử lại chiếm tỷ lệ không nhỏ. Điều này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên
cứu, đánh giá một cách toàn diện trên phương diện lý luận và thực tiễn hoạt động

đến 02 công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tòa án nhân dân Tối cao với Đề
tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp
về quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân” (năm 2002) và “Thực tiễn giải quyết
tranh chấp về hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử
dụng đất - những vướng mắc và kiến nghị” (năm 2012); luận án tiến sĩ của Mai Thị
Tú Oanh (năm 2013) về “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng
Tòa án ở nước ta" và sách chuyên khảo với tựa đề “Kỹ năng áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam” của Tiến sĩ Doãn Hồng Nhung chủ
biên (năm 2014) hay cuốn “Giao dịch về quyền sử dụng đất vô hiệu, pháp luật và
thực tiễn xét xử” của Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng (năm 2011) v.v.
Bên cạnh đó, các bài viết cũng là tư liệu quan trọng khi tìm hiểu về vấn đề
này như bài viết “Về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong những quy định
của Luật đất đai” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Dung đăng trên Tạp chí Luật học - Số
chuyên đề về Luật đất đai 2003 xuất bản tháng 5/2004, bài viết “Về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai của Tòa án” của Tiến sĩ Nguyễn Quang Tuyến đăng trên
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14 tháng 7/2004, “Hoàn thiện các quy định pháp luật
về giải quyết tranh chấp đất đai” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
17/2006 của tác giả Lưu Quốc Thái hay bài “Luật đất đai (sửa đổi) cần mở rộng
thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong giải quyết các tranh chấp về đất đai” của
tác giả Nguyễn Văn Thắng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21 năm 2013 v.v.
Ngoài ra, các chuyên đề trình bày trong Hội thảo: “Tình trạng tranh chấp và khiếu
kiện đất đai kéo dài: thực trạng và các giải pháp” tổ chức tại Buôn Mê Thuột (năm
2008), các bài tham luận tại Hội nghị triển khai công tác ngành Tòa án nhân dân các
năm (2013, 2014) … cũng là những nguồn tài liệu đáng tin cậy và có giá trị cao khi
tác giả tiếp cận với vấn đề.
Các công trình khoa học trên nghiên cứu ở các khía cạnh, góc độ khác nhau
tạo nên một bức tranh tương đối đa dạng về vấn đề tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai nói chung cũng như giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường
Tòa án nhân dân nói riêng ở nước ta hiện nay. Nghiên cứu vấn đề ở phạm vi rộng,


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm các nội dung cụ thể sau đây:


5
- Các quy định của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành
về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai trong công tác
xét xử của Tòa án nhân dân.
- Quan điểm, đường lối của Đảng về vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong
Chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam.
- Các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng
dẫn thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân
dân” là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản
luận văn thạc sĩ luật học, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở các quy định của
Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luật nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn giải v.v.
được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tranh chấp
đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân.
ii) Phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp lập luận lô gic

tranh chấp đất đai là gì ? Trước khi tìm hiểu về khái niệm tranh chấp đất đai, chúng ta cần
hiểu thế nào là tranh chấp? Theo Đại từ điển Tiếng Việt (năm 1999) thì tranh chấp là
giành giật, giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào, là bất đồng, trái ngược nhau.
Khái niệm tranh chấp đất đai đã được giải thích trong văn bản pháp luật đất đai. Luật
đất đai năm 2013 quan niệm: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của
người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”1.
Phân tích quy định trên của Luật đất đai năm 2013, chúng ta thấy rằng các nhà làm
luật đưa ra định nghĩa về tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người
sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Các nhà làm luật đã định
nghĩa bằng cách sử dụng chính thuật ngữ cần định nghĩa để định nghĩa: "tranh chấp đất
đai là tranh chấp...". Cách định nghĩa như vậy chưa giúp người đọc hiểu được tranh chấp
là gì? Bản chất của nó như thế nào?
Tranh chấp là những mâu thuẫn, xung đột, những quan điểm, ý kiến khác nhau, thậm
chí là đối nghịch, trái ngược nhau về cùng một vấn đề. Trong quan hệ đất đai, tranh chấp
chính là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể về các vấn đề lợi ích, quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể trong quan hệ đất đai. Trong bất cứ quan hệ nào, lợi ích
luôn là vấn đề được các chủ thể đặt lên hàng đầu, lợi ích luôn gắn liền với quyền và nghĩa
vụ của mỗi bên, nói một cách trực diện là nếu không có lợi ích sẽ khó có thể phát sinh
quan hệ, và không có quan hệ thì cũng không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa
các bên chủ thể với nhau. Vì thế nói đến quyền và nghĩa vụ không thể không nhắc tới lợi
ích đằng sau nó. Trong nội hàm của khái niệm tranh chấp đất đai tại khoản 24 Điều 3
Luật đất đai năm 2013, các nhà làm luật chỉ nói đến "quyền và nghĩa vụ" là chưa đầy đủ.
Điều này đã được quy định tại Luật đất đai năm 2003, nhưng đến Luật đất đai 2013 vẫn
1

Khoản 24 Điều 3 Luật đất đai năm 2013


8
không có sự sửa đổi là chưa phù hợp với bản chất của các quan hệ xã hội nói chung, quan


9
nước ta : Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu2. Nên tranh
chấp đất đai ở nước ta chỉ là tranh chấp diễn ra giữa người sử dụng đất với nhau hoặc
giữa người sử dụng đất với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác.
Hai là, ở nước ta không có tranh chấp về quyền sở hữu đất đai mà chỉ tồn tại tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hay nhiều bên trong quá trình
sử dụng đất. Do pháp luật nước ta chỉ thừa nhận một chế độ sở hữu đất đai - Chế độ đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.
Ba là, tranh chấp liên quan đến cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất giữa một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân trong việc ra quyết định giao đất, cho thuê đất; quyết định cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất; quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ);
quyết định về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất v.v... là tranh chấp hành chính. Việc giải quyết các tranh chấp này do Tòa hành chính
giải quyết.
Trong khi đó, tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
giữa những người sử dụng đất với nhau hoặc giữa họ với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
khác là tranh chấp mang tính chất dân sự. Việc giải quyết loại tranh chấp này thuộc thẩm
quyền của Tòa dân sự.
Bốn là, tranh chấp đất đai luôn gắn liền với quá trình sử dụng đất của các chủ thể nên
khi xảy ra không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tranh chấp mà còn làm
ảnh hưởng đến các bất động sản liền kề, gây mất ổn định, bất đồng trong nội bộ nhân dân
và ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, làm cho những chính sách, quy định pháp luật về
đất đai của Nhà nước không được thực thi một cách triệt để.
1.1.3. Các dạng tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là biểu hiện của những bất đồng, trái ngược trong quan điểm, suy
nghĩ của các chủ thể có quyền quản lý và sử dụng đất đai. Những biểu hiện này rất đa
dạng, phong phú vì vậy tranh chấp đất đai cũng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau,
tùy theo mục đích nghiên cứu và tiêu chí phân loại mà tranh chấp đất đai được chia thành

Bốn là, tranh chấp trong quan hệ tặng cho QSDĐ không có hợp đồng. Trường hợp
này giữa các bên tặng cho thường có quan hệ thân thiết, gần gũi với nhau như bố mẹ với
con; anh chị, em với nhau nên khi tặng cho các bên không làm văn bản, hợp đồng tặng
cho. Tranh chấp thường xuất hiện khi bên tặng cho muốn đòi lại QSDĐ đã cho trước đây.
Dạng tranh chấp này thường có cả tài sản trên đất; vì khi được tặng cho, bên được tặng
cho đã xây dựng nhà cửa, công trình trên đất.
Năm là, tranh chấp đòi lại QSDĐ, nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Tranh chấp
này phát sinh khi người có QSDĐ, tài sản gắn liền với đất cho người khác mượn, ở nhờ
hoặc cho thuê nhà, đất nay những người đó không trả lại. Tranh chấp đòi lại QSDĐ, tài
sản gắn liền với đất cũng phát sinh do có sự thay đổi trong chính sách, pháp luật về đất
đai của Nhà nước qua các giai đoạn mà đất đã được chia cấp cho người khác. Loại tranh


11
chấp này thường có các dạng sau: i) Tranh chấp đòi lại QSDĐ, nhà ở và tài sản gắn liền
với đất khi cho thuê, cho mượn, ở nhờ; ii) Tranh chấp đòi lại QSDĐ, tài sản gắn liền với
đất của người thân trong những giai đoạn trước đây mà qua các cuộc điều chỉnh ruộng đất
đã được chia cấp cho người khác. Trong dạng tranh chấp này cũng có cả tranh chấp đòi
lại đất khi bị đưa vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất; iii) Tranh chấp đòi lại quyền sở hữu
nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được pháp luật cho sở hữu
nhà ở tại Việt Nam nhờ người thân đứng tên mua hộ nhà, đất. Nay người đứng tên mua
hộ không làm thủ tục sang tên hoặc không trả lại nhà; iv) Tranh chấp đòi lại QSDĐ có tài
sản gắn liền trên đất của dòng họ, nhà thờ, thánh thất, chùa chiền. Do hoàn cảnh đất
nước, do yếu tố lịch sử để lại, các cơ sở này được Nhà nước mượn, trưng dụng vào các
mục đích khác nhau, nay không trả nên họ đòi lại.
Thứ hai, các dạng tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực hiện hợp
đồng liên quan đến QSDĐ, nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Khác với các dạng tranh
chấp trên đây, ở dạng tranh chấp này, các bên bị ràng buộc quyền và nghĩa vụ với nhau
trên cơ sở hợp đồng. Các dạng tranh chấp cụ thể được phân chia theo từng loại hợp đồng
là tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,

quy hoạch như tranh chấp phát sinh trong nhóm đất nông nghiệp giữa đất trồng lúa với
đất nuôi trồng thủy sản, tranh chấp giữa đất trồng cây lâu năm và đất trồng cây hàng năm;
tranh chấp phát sinh trong nhóm đất thổ cư như tranh chấp đất hương hỏa và đất thổ cư
hay tranh chấp giữa các nhóm đất với nhau như chuyển đất nông nghiệp sang thành đất
thổ cư không theo quy hoạch... Các chủ thể trong dạng tranh chấp này là người được Nhà
nước giao đất và cơ quan, tổ chức được Nhà nước trao quyền quản lý đất đai.
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai
Bất cứ hiện tượng nào xảy ra cũng đều có nguyên nhân. Tranh chấp đất đai là một
hiện tượng xã hội xảy ra với tần suất và mức độ ngày càng nhiều và phức tạp ở hầu hết
các địa phương trong cả nước, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của các bên tranh chấp và
trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy tìm hiểu nguyên nhân để góp phần hạn chế, tiến tới loại bỏ
các nguyên nhân đó sẽ có tác dụng rất lớn trong việc giải quyết, giảm thiểu tranh chấp.
Tranh chấp đất đai là những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích, về quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể trong quan hệ quản lý và sử dụng đất. Vậy tại sao các chủ thể lại phát
sinh những bất đồng, xung đột này? Liệu có phải các tranh chấp nảy sinh hoàn toàn là do
ý chí của các bên chủ thể hay còn những lý do nào khác?
Mỗi dạng tranh chấp đất đai đều có những nguyên nhân riêng, nhưng nhìn chung các
tranh chấp đất đai xảy ra đều do những yếu tố khách quan và chủ quan. Có thể thấy các
tranh chấp đất đai ở nước ta do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Trước hết là nguyên nhân khách quan: Chiến tranh kéo dài đã để lại những hậu quả
nặng nề ở cả hai miền đất nước. Nhiều chính sách, pháp luật về đất đai đã được thay đổi


13
theo từng thời kỳ để đảm bảo vừa phục vụ công cuộc kháng chiến cứu nước vừa duy trì,
phát triển kinh tế đất nước. Chiến tranh diễn ra ở hai miền đất nước có sự khác nhau nên
các chính sách, pháp luật về đất đai ở hai miền Nam, Bắc cũng không giống nhau.
Ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ đã tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ
chiếm hữu ruộng đất của thực dân phong kiến và xác lập quyền sở hữu ruộng đất cho
người nông dân sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Đến năm 1960, chính sách

14
tác quản lý đất đai của Nhà nước còn nhiều hạn chế, thể hiện trong tổ chức bộ máy, công
tác quản lý hành chính... Đã có giai đoạn, Nhà nước có sự phân công, phân cấp quản lý
đất đai chưa phù hợp, nhóm đất thuộc ngành nào thì ngành đó quản lý (như đất lâm
nghiệp thì ngành lâm nghiệp quản lý, đất chuyên dùng thuộc ngành nào thì ngành đó
quản lý) dẫn đến tình trạng có loại đất không được cơ quan nào quản lý (đất chưa sử
dụng). Các cơ quan quản lý đất đai từ trung ương đến địa phương có nhiều thay đổi cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém trong công tác quản lý đất
đai4. Bên cạnh đó, công tác phân vùng quy hoạch đất đai còn chậm, không đồng bộ, việc
phân chia địa giới hành chính có nhiều thay đổi nhưng mốc giới xác định không rõ ràng,
kịp thời làm cho tình trạng tranh chấp đất đai càng thêm căng thẳng. Công tác quản lý hồ
sơ, giấy tờ về đất đai còn kém hiệu quả, chưa có đầy đủ phương tiện và phương pháp
quản lý cần thiết để xác định QSDĐ cho các chủ thể nên đã làm giảm hiệu lực của công
tác giải quyết tranh chấp đất đai.
Nguyên nhân chủ quan thứ hai là chính sách, pháp luật đất đai chưa hoàn thiện, còn
nhiều biến động qua các thời kỳ. Các văn bản hướng dẫn thi hành chậm được ban hành
nên xảy ra tình trạng có Luật mà không thi hành được vì còn chờ văn bản hướng dẫn. Khi
đã có văn bản hướng dẫn thì việc áp dụng ở các địa phương còn tùy tiện, không thống
nhất.
Một nguyên nhân nữa là không chỉ chậm ban hành văn bản hướng dẫn, mà nhiều văn
bản pháp luật về đất đai chưa được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi; nhiều kế hoạch, quy
hoạch sử dụng đất bị bưng bít thông tin vẫn còn tồn tại. Điều này dẫn đến tình trạng
người dân không thể biết được sự thay đổi, biến động trên chính mảnh đất mình đang
sinh sống. Cùng với đó sự thoái hóa, biến chất trong đạo đức công vụ của một bộ phận
cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai tại địa phương cũng là một trong những
nguyên nhân làm cho tình hình tranh chấp đất đai ở nước ta ngày càng gia tăng căng
thẳng, phức tạp.
1.2. Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án
nhân dân
4

quan tư pháp là Tòa án nhân dân (TAND, Tòa án). Sự phân chia về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp có nguyên nhân sâu xa do lịch sử để lại và chính sách, pháp luật đất đai
qua các thời kỳ ở nước ta. TAND là cơ quan xét xử của nước ta, thực hiện quyền tư
pháp5. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân. Tranh chấp đất đai là một trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa án.
Nếu như quá trình giải quyết tranh chấp đất đai của UBND được coi là hoạt động
hành chính thì quá trình giải quyết tranh chấp đất đai của TAND được coi là hoạt động tố
tụng. Bắt đầu từ khi đương sự nộp đơn khởi kiện tại TAND, đội ngũ cán bộ, công chức
5

Hiến pháp 2013, Điều 102.


16
của cơ quan Tòa án phải xem xét kĩ nội dung đơn khởi kiện để xác định vụ việc có thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình hay không? Nếu xét thấy vụ việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình thì cần hướng dẫn đương sự nộp đơn và các tài liệu cần thiết để thụ lý vụ
án. Kể từ thời điểm này, quá trình giải quyết tranh chấp đất đai của TAND được tiến
hành theo đúng các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Kết quả của hoạt động
giải quyết tranh chấp tại TAND là bản án hoặc quyết định. Hiến pháp năm 2013 quy định
bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành (Điều 106).
Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được bảo đảm thi hành bởi sức mạnh
cưỡng chế của quyền lực Nhà nước (thông qua cơ quan Thi hành án dân sự), vì vậy hoạt
động giải quyết tranh chấp đất đai của TAND có ý nghĩa rất lớn.
Như vậy có thể thấy, giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND là hoạt động tố tụng
của cơ quan Tòa án nhằm mục đích giải quyết những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về
lợi ích, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật đất đai khi người khởi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status