PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG - Pdf 49

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT
----------

BÀI THẢO LUẬN
Học phần: Luật Đất đai

Đề tài: PHÂN TÍCH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM, THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT

Nhóm 2
Giảng viên hướng dẫn:
Lớp học phần: 1610PLAW2211


LỜI MỞ ĐẦU
Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây
dựng các cơ sở kinh tế văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng.
Đất đai gắn liền với chủ quyền, lãnh thổ của mỗi quốc gia, của mỗi địa phương;
gắn liền với cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi con người...
Pháp luật nước ta luôn đặt việc điều chỉnh các vấn đề đất đai lên hàng đầu. Nhà
nước không ngừng hoàn thiện pháp luật về đất đai để phù hợp với sự phát triển
kinh tế xã hội, với mục tiêu xây dựng đất nước.
Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Nhà nước đã ban hành Luật
Đất đai 1987, Luật đất đai 1993, Luật sửa đổi bổ sung Luật đất đai năm 1998, năm
2001, Luật Đất đai năm 2003 và gần đây nhất là Luật đất đai 2013. Bên cạnh đó,
pháp luật về đất đai ngày càng hoàn thiện hơn với hệ thống các văn bản dưới luật
như các Nghị định, Thông tư,...
Nhắc đến pháp luật về đất đai, một trong những nội dung không thể thiếu là pháp

luật hiện hành có ba loại hình tranh chấp đất đai:
+ Tranh chấp về quyền sử dụng đất đai;
+ Tranh chấp về tài sản có liên quan đến quyền sử dụng đất;
+ Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến địa giới đơn vị hành chính
(xã, huyện, tỉnh) Tuy nhiên, trên thực tế thường xuất hiện dạng tranh chấp đất đai
phổ biến sau đây:
- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất: Dạng tranh chấp này thường
xảy ra ở vùng nông thôn, việc phát sinh thường là do lúc chuyển đổi đất đai hai bên
không làm hợp đồng hoặc hợp đồng có được soạn thảo nhưng nội dung rất sơ sài,


đơn giản. Vì thế, sau một thời gian một bên cảm thấy quyền lợi bị thiệt thòi nên
phát sinh tranh chấp, mặc dù vào thời điểm chuyển đổi hai bên đều đã nhất trí về
các điều kiện để chuyển đổi quyền sử dụng đất.
- Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
Dạng tranh chấp này xảy ra khá phổ biến, việc phát sinh thường là do một bên
hoặc cả hai bên thực hiện không đúng giao kết như không trả tiền hoặc không giao
đất, cũng có trường hợp do bị lừa dối hoặc sau khi ký kết hợp đồng thấy bị hớ
trong điều khoản thỏa thuận về giá cả nên rút lại không thực hiện hợp đồng. Nhiều
trường hợp nội dung hợp đồng không đề cập rõ ràng về mục đích của hợp đồng,
không xác định cụ thể bên bán hay bên mua có nghĩa đóng thuế chuyển quyền sử
dụng đất, làm thủ tục . đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp
- Tranh chấp hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất:
Việc phát sinh dạng tranh chấp này là do một bên hoặc cả hai bên vi phạm các điều
khoản của hợp đồng như: Hết thời hạn thuê đất nhưng không chịu trả lại đất cho
bên cho thuê; Không trả tiền thuê đất; Sử dụng đất không đúng mục đích khi thuê;
Đòi lại đất trước thời hạn hợp đồng.
- Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất:
Dạng tranh chấp này thường phát sinh sau khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết,
nhưng bên vay đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.


việc

sử

dụng

đất;

- Tranh chấp tài sản gắn liền với đất;
- Tranh chấp đất trong vụ án ly hôn.
Trên cơ sở khái niệm tranh chấp đất đai chúng ta có khái niệm giải quyết tranh
chấp đất đai như sau: “giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên để tìm
ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể trong quan hệ đất đai”
c, Đặc điểm tranh chấp đất đai
Quan hệ đất đai là một dạng đặc biệt của quan hệ dân sự nên bên cạnh những đặc
điểm chung của một tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai còn mang những đặc
điểm đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, tranh
chấp kinh tế. Sự khác biệt đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của tranh chấp đất đai chỉ có thể là chủ thể của quyền quản lý và
quyền sử dụng đất mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất đai. Quyền sử
dụng đất của các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất


của Nhà nước hoặc được Nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các chủ thể
khác hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích
đất đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của tranh chấp đất đai là các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc người sử dụng đất.

chung, có sự phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý đất đai khá rõ. Tuy nhiên,
trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều sai phạm, non kém về trình độ quản lý của đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai. Điều này góp phần làm xuất hiện nhiều
tranh chấp đất đai phức tạp, khó giải quyết. Cụ thể:
- Hồ sơ địa chính chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, nên thiếu căn cứ pháp lý và thực tế để
xác định quyền sử dụng và quản lý đất đai của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là ở
những vùng mà quan hệ đất đai phức tạp và có nhiều biến động. Trong nhiều
trường hợp, việc tranh chấp đất đai lại bắt nguồn từ những tài liệu lịch sử của chế
độ cũ để lại. Hơn nữa, việc giao đất lại không được tiến hành theo một quy trình
chặt chẽ, nên hồ sơ đất đai không đồng bộ và bị thất lạc.
- Quy hoạch sử dụng đất đai chưa đi vào nề nếp, nên nhiều trường hợp sử dụng đất
không hợp lý khó bị phát hiện. Khi phát hiện thì lại không được xử lý kịp thời.
Nhiều địa phương còn có những nhận thức lệch lạc về chính sách đất đai, quản lý
đất đai còn nặng về biện pháp mệnh lệnh hành chính mà chưa chú ý đến biện pháp
quản lý về mặt kinh tế
- Một số nơi ban hành văn bản pháp lý đất đai không rõ ràng, hoặc chủ trương sai
lầm của một số cán bộ đã làm cho một bộ phận nhân dân hiểu lầm là Nhà nước có
chủ trương "trả lại đất cũ", trả lại đất ông cha, dẫn đến việc khiếu kiện đòi lại đất
ngày càng nhiều
+ Về công tác cán bộ công chức thực hiện công vụ liên quan đến đất đai Một bộ
phận cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý đất đai đã thực hiện không tốt
nhiệm vụ được giao, thiếu gương mẫu, lạm dụng chức quyền, vì lợi ích riêng tư, bị
kẻ xấu lợi dụng để "đục nước béo cò", thực hiện những âm mưu đen tối, gây mất
ổn định xã hội. Lợi dụng chủ trương điều chỉnh ruộng đất, tổ chức lại sản xuất theo
cơ chế mới, một số cán bộ, đảng viên lợi dụng sơ hở trong các chế độ, chính sách
đất đai của Nhà nước và dựa vào chức quyền để chiếm dụng đất đai trái phép, gây
bất bình trong nhân dân. Đặc biệt, ở những nơi nội bộ mất đoàn kết thì lại lấy vấn
đề đất đai làm phương tiện để đấu tranh với nhau, một số phần tử xấu lợi dụng cơ



phức tạp và gay gắt hơn
+ Về công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật Công tác tuyên truyền,
giáo dục và phổ biến pháp luật đất đai chưa được coi trọng, làm cho nhiều văn bản


pháp luật đất đai của Nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng trong nhân dân. Tuy
nhiên, việc tranh chấp đất đai ở mỗi địa phương khác nhau còn có những nguyên
nhân đặc thù và việc tìm ra những nguyên nhân đó phải căn cứ vào thực tế sử dụng
đất, và phong tục tập quán của từng địa phương để xây dựng được những giải pháp
tốt nhất nhằm giải quyết có hiệu quả từng vụ tranh chấp. Song trên thực tế khía
cạnh này chưa được các cơ quan nhà nước chú trọng, xem xét.
Nguyên nhân khách quan
+ Tranh chấp đất đai ở nước ta phát sinh có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại. Ở
miền Bắc, sau Cách mạng tháng 8 và sau năm 1953, Đảng và Chính phủ đã tiến
hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực dân, phong
kiến, thiết lập quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân. Năm 1960, thông qua
con đường hợp tác hóa nông nghiệp, ruộng đất của người nông dân được đưa vào
làm tư liệu sản xuất chung trở thành sở hữu tập thể, do đó tình hình sử dụng đất đai
tương đối ổn định.
Ở miền Nam, sau hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm tình hình sử dụng đất
đai có nhiều diễn biến phức tạp hơn. Trong chín năm kháng chiến, Chính phủ đã
tiến hành chia ruộng đất cho người nông dân hai lần vào các năm 1949 - 1950 và
năm 1954, nhưng đến năm 1957, ngụy quyền Sài gòn đã thực hiện cải cách điền
địa, thực hiện việc "truất hữu" nhằm xóa bỏ thành quả của cách mạng, gây ra
những xáo trộn về quyền quản lý ruộng đất của người nông dân. Sau khi thống
nhất đất nước, năm 1975, Nhà nước đã tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, đồng
thời xây dựng hàng loạt các lâm trường, nông trường, trang trại. Những tổ chức đó
bao chiếm quá nhiều diện tích đất nhưng sử dụng lại kém hiệu quả. Đặc biệt, qua
hai lần điều chỉnh ruộng đất vào các năm 1977 - 1978 và năm 1982- 1983, với
chính sách chia cấp đất theo kiểu bình quân, "cào bằng" đã dẫn tới những xáo trộn

khích việc tự thương lượng, tự hòa giải trong nội bộ nhân dân
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai phải nhằm mục đích ổn định tình hình
chính trị, kinh tế, xã hội, gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với việc tổ chức lại
sản xuất, bố trí lại cơ cấu sản xuất hàng hóa Do ảnh hưởng tiêu cực của tranh chấp
đất đai đến mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nên việc giải quyết các
tranh chấp đất đai phải nhằm vào mục đích bình ổn các quan hệ xã hội. Chú ý đảm
bảo quá trình sản xuất của người dân, tránh làm ảnh hưởng dây chuyền đến cơ cấu
sản xuất chung. Đồng thời cải thiện và bố trí, sắp xếp lại cơ cấu sản xuất hàng hóa
theo chủ trương của Đảng: "Ai giỏi nghề gì, làm nghề ấy


Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa Khi giải quyết tranh chấp đất đai
phải chú ý và tuân thủ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật
đã quy định. Phát hiện và giải quyết kịp thời các vi phạm pháp luật về đất đai,
tránh tình trạng để tranh chấp đất đai kéo dài, làm ảnh hưởng tới tâm lý và lợi ích
của người dân
II. Lịch sử pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
Đất đai, chính sách đất đai là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng từ 1930 đến nay, Cách mạng tháng Tám 1945 đã khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ công hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
khu vực Đông Nam Á, đồng thời cũng đặt nền móng cho ngành Quản lý đất đai
Việt Nam dưới chế độ mới; Nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống Ngành
xin điểm lại khái quát chính sách pháp luật đất đai Việt Nam 1945 – 2010.
1. Lịch sử hình thành pháp luật về đất đai
Đất đai, chính sách đất đai là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng từ 1930 đến nay, Cách mạng tháng Tám 1945 đã khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ công hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
khu vực Đông Nam Á, đồng thời cũng đặt nền móng cho ngành Quản lý đất đai
Việt Nam dưới chế độ mới; Nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống Ngành
xin điểm lại khái quát chính sách pháp luật đất đai Việt Nam 1945 – 2010.

nguyên canh, rút nhiều bù ít, rút tốt bù xấu, rút gần bù xa; chia theo nhân khẩu chứ
không chia theo lao động; lấy số diện tích bình quân và sản lượng bình quân ở địa
phương làm tiêu chuẩn để chia; chia theo đơn vị xã, xong nếu xã ít người, nhiều
ruộng thì thì có thể san sẻ một phần cho xã khác ít ruộng, nhiều người, sau khi chia
đủ cho nông dân trong xã”.
1.2. Giai đoạn 1955 - 1975
1.2.1. Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế nông nghiệp
Tháng 9/1954 Bộ Chính trị ra quyết định thực hiện hoàn thành cải cách ruộng
đất và Kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế (1955 - 1957); Tháng 5/1955 Quốc Hội
ban hành 8 chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp nhằm khôi phục kinh tế
sau chiến tranh (khi chiến tranh kết thúc, 140.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang hóa;
200.000 ha không có nước tưới); Tháng 8/1955 Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa II đã thông qua chủ trương xây dựng thí điểm hợp tác
xã sản xuất nông nghiệp (HTXSXNN).
1.2.2. Thí điểm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp (1955 - 1957)


Năm 1955 có 6 HTXSXNN được thành lập ở các tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên,
Thanh Hóa; Năm 1956 có 26 HTXSXNN được thành lập; đến 10/1957 có 42
HTXSXNN được thành lập.
1.2.3. Cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thí điểm xây
dựng HTX nông nghiệp bậc thấp (1958-1960)
Tháng 11/1958 Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã
đề ra kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế miền Bắc (1958 1960): “Đẩy mạnh cuộc cách mạng XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể của
nông dân, thợ thủ công và cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế tư bản tư
doanh, đồng thời phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh”; “Hợp tác hóa nông
nghiệp là cái khâu chính trong toàn bộ dây chuyền cải tạo XHCN ở miền Bắc nước
ta. Mục tiêu là đến năm 1960 phải căn bản hoàn thành HTX bậc thấp, tức là phải
thu hút được tuyệt đại bộ phận nông dân cá thể vào HTX”;
1.2.4. Xây dựng HTX nông nghiệp bậc thấp (1960 - 1975)

HTX điều hành các hoạt động của đội sản xuất theo theo một kế hoạch đã được
xây dựng sẵn”.
- Nghị quyết 24 - Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III tháng 9/1975 đã xác
định chủ trương: “Triệt để xóa bỏ tàn dư chế độ thực dân phong kiến về ruộng
đất” với phương hướng: “Kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo XHCN đối với nông nghiệp
với xây dựng nền nông nghiệp lớn XHCN, một mặt xây dựng các nông trường
quốc doanh… mặt khác phải thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp, làm từng bước
tích cực, vững chắc”. Thực hiện Nghị quyết 24 - Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa III), đến năm 1978 ở các tỉnh miền Trung đã xây dựng được 114 HTX nông
nghiệp với 90% ruộng đất, 80% trâu bò và các tư liệu sản xuất khác đã được tập
thể hóa; Ở Tây Nguyên xuất hiện chủ yếu hình thức các tổ hợp tác lao động và tập
đoàn sản xuất; ở Nam Bộ thí điểm xây dựng HTX ở Tân Hội (Tiền Giang), Ô môn
(Hậu Giang), Long Thàng (Đồng Nai);Mô hình tập thể hóa nông nghiệp đã đạt đến
đỉnh cao, hoàn chỉnh, phân công lao động trong HTX nông nghiệp theo hướng
chuyên môn hóa.
1.3. Giai đoạn 1976 - 1985
1.3.1. Hoàn thiện HTX quy mô toàn xã, tổ chức nông nghiệp sản xuất lớn (19761980)
- Đại Hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV tháng 12 năm 1976 quyết định
đường lối xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước. Chủ trương xây dựng cấp huyện,
hoàn thiện xây dựng HTX quy mô toàn xã, tổ chức nông nghiệp sản xuất lớn được


tiếp tục khẳng định: “Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung, xóa
bỏ kiểu tổ chức sản xuất và ăn chia theo đội. Thực hiện việc quản lý, sử dụng
ruộng đất tập trung, thống nhất trên quy mô HTX. Các HTX phân phối lại ruộng
đất cho các đội trên nguyên tắc tiện canh tiện cư với quy mô lớn, tránh phân tán,
chia sẻ ruộng đất manh mún”; “Chuyển sản xuất tập thể từ kiểu làm ăn phân tán, tự
cấp tự túc sang sản xuất theo quy hoạch và kế hoạch thống nhất của huyện”; “Về
cải tiến quản lý, tổ chức lao động theo hướng tập trung, dưới sự điều hành thống
nhất của ban quản trị HTX. Trên cơ sở định mức lao động, xếp bậc công việc, tiêu

- Ngày 18/1/1984 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 35/CT-TW
“về khuyến khích và hướng dẫn phát triển kinh tế gia đình”:“Về đất cho phép các
hộ gia đình nông dân tận dụng mọi nguồn đất đai mà HTX, nông lâm trường chưa
sử dụng hết để đưa vào sản xuất”; “Về thuế, nhà nước không đánh thuế sản xuất,
kinh doanh đối với kinh tế gia đình, chỉ đánh thuế sát sinh và đất thuộc; đất phục
hóa được miễn thuế nông nghiệp”; “Về lưu thông, hộ gia đình nông dân được
quyền tiêu thụ các sản phẩm làm ra”.
- Ngày 29/1/1985 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 56 về việc
củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn miền núi, cho phép áp dụng linh hoạt các
hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao; ở vùng núi cao, không nhất thiết tổ chức
HTX mà phát triển kinh tế hộ gia đình và thiết lập quan hệ nhà nước - nông dân
theo đơn vị bản, buôn; trong HTX áp dụng hình thức khoán gọn cho hộ xã viên.
1.4. Giai đoạn từ 1986 đến nay
1.4.1. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Đường lối Đổi mới, đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác định tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VI (1986), và được Đại hội
Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá VII (1991), Khoá VIII (1996),
Khoá IX ( 2001), Khoá X (2006) tiếp tục phát triển.
1.4.2 Đổi mới chính sách đất đai đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế kinh tế
Thể chế hóa chủ trương, chính sách đất đai của Đảng, Hiến Pháp Cộng hòa
XHCN Việt Nam năm 1992, đã quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 17);
Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật (Điều 18). Luật
Đất đai 1987, Luật Đất đai 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Đất đai


1998, 2001, Luật Đất đai 2003, đã cụ thể hóa các quy định về đất đai của Hiến
pháp. Luật Đất đai đã quy định các nguyên tắc quản lý và sử dụng đất đai: đất đai



Quyền định đoạt của Nhà nước là cơ bản và tuyệt đối thể hiện các hoạt động cụ thể
khi giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Về
quyền hưởng dụng lợi ích thu được từ đất đai: Nhà nước - đại diện chủ sở hữu toàn
dân về đất đai có quyền hưởng dụng lợi ích từ đất đai, nhằm phục vụ cho các hoạt
động của Nhà nước và lợi ích của toàn xã hội.
- Bảo vệ chế độ sở hữu đất đai: Luật Đất đai 1987 quy định: “Nghiêm cấm việc
mua, bán, lấn chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức, nhận đất được
giao mà không sử dụng, sử dụng đất không đúng mục đích, tự tiện sử dụng đất
nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm hủy hoại đất đai” (Điều 1 Luật
Đất đai 1987); Luật Đất đai 1993 quy định: “Nghiêm cấm việc lấn chiếm đất đai,
chuyển quyền sử dụng đất trái phép, sử dụng đất không đúng mục đích được giao,
hủy hoại đất” (Luật Đất đai 1993, Điều 6); Luật Đất đai 2003: “Nhà nước không
thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người
khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam
và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. (Luật Đất đai 2003, Điều 10);
2. 2. Quyền sử dụng đất
2. 2.1. Người sử dụng đất: Luật đất đai 1987 (Điều 1) quy định người sử dụng
đất bao gồm: Các nông trường, lâm trường, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp; các xí nghiệp; đơn vị vũ trang nhân dân; cơ quan nhà nước; tổ
chức xã hội; cá nhân. Luật đất đai 1993 (Điều 1) quy định người sử dụng đất bao
gồm: các tổ chức kinh tế; đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức
chính tri, xã hội (gọi chung là tổ chức), hộ gia đình và cá nhân. So với Luật Đất đai
1987, Luật Đất đai 1993 đã mở rộng thành phần: tổ chức kinh tế và hộ gia
dình;Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai 1998, 2001 đã bổ sung thêm đối tượng: “tổ
chức, cá nhân nước ngoài”. Luật Đất đai 2003 quy định cụ thể hơn.
2. 2.2. Các quyền sử dụng đất
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 1980, Luật Đất đai 1987 đó quy định cụ



CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
2.1.1 Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai:
Luật Đất đai 2013 quy định tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã
(nơi có đất) mà không thành, trường hợp đương sự không có Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
đã được cấp trước ngày 10 - 12 - 2009; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi chung là giấy chứng nhận), hoặc
không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, thì đương
sự được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
1. Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự, trình tự thủ tục thực hiện theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự
2. Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy
định tại khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai.
Khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai quy định: “Trường hợp đương sự lựa chọn giải
quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất
đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì
Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết
thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân
dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ
tịch UBND cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có
quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại
Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
Cần lưu ý đương sự chỉ được chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp

Hồ Chí Minh…
Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã được thực hiện trong thời hạn
không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết. Việc hòa giải
phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành
hoặc hòa giải không thành của UBND cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các


bên tranh chấp, lưu tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp. Trường hợp hòa giải
thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì UBND cấp xã
gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường
hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi
đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác để trình UBND
cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất.
Giải quyết tranh chấp đất đai theo trình tự tố tụng (dân sự):
Việc giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án được thực hiện theo quy định
chung tại Bộ luật tố tụng dân sự. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án tại Tòa án có
thẩm quyền (Tòa án nơi có bất động sản đó).
Người khởi kiện vụ án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đến Tòa án có
thẩm quyền, thực hiện việc tạm ứng án phí và hoàn chỉnh hồ sơ, đơn khởi kiện theo
yêu cầu của Tòa án.
Khi Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án, sẽ tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Khác với hoạt động hòa giải trước khi
khởi kiện, đây là giai đoạn bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự do
chính Tòa án chủ trì và tiến hành:
Nếu hòa giải thành thì Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành, hết 07 ngày
mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì tranh chấp chính thức kết thúc.
Nếu hòa giải không thành thì Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan1
Trình tự giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và môi trường được quy định:

1 Theo Điều 89 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định về hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2013


1. Người có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai gửi đơn đến Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường.
2. Sau khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường phân công đơn vị có chức năng tham mưu giải quyết. Đơn
vị được phân công giải quyết tiến hành thu thập, nghiên cứu hồ sơ; tổ chức hòa giải
giữa các bên tranh chấp; trường hợp cần thiết trình Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường quyết định thành lập đoàn công tác để tiến hành thẩm tra, xác minh vụ
việc tại địa phương; hoàn chỉnh hồ sơ trình Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường ban hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai.
3. Hồ sơ giải quyết tranh chấp đất đai gồm:
a) Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai;
b) Biên bản làm việc với các bên tranh chấp, với các tổ chức, cá nhân có liên quan;
biên bản kiểm tra hiện trạng đất tranh chấp; biên bản hòa giải trong quá trình giải
quyết tranh chấp;
c) Trích lục bản đồ, hồ sơ địa chính qua các thời kỳ liên quan đến diện tích đất
tranh chấp, hồ sơ, tài liệu làm chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết
tranh chấp đất đai tại địa phương;
d) Báo cáo đề xuất và dự thảo quyết định giải quyết tranh chấp hoặc dự thảo quyết
định công nhận hòa giải thành.
4. Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai hoặc quyết định công nhận hòa giải
thành được gửi cho các bên tranh chấp, các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ
liên quan. 2


tịch UBND cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có
quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại
Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính
- Bổ sung quy định thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status