Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao tính bắt buộc trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công - Pdf 79

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, phương tiện
sử dụng trong ngành giao thông vận tải cũng được cải tiến đến chóng mặt cả về
số lượng lẫn chất lượng. Hàng năm có hàng nghìn phương tiện hoạt động được
điều khiển từ con người thu: xe đạp, xe máy, ôtô...
Song sóng với sự tiến bộ này là tình hình giao thông đường bộ ngày càng
phức tạp, tai nạn giao thông ngày càng nhiều gây thiệt hại lớn về tài sản tính
mạng cho con người cũng như cho toàn xã hội.
Để giảm bớt những thiệt hại đó nnhằm đảm bảo an toàn cho xã hội đồng
thời bảo vệ lợi ích hoạt động kinh doanh, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimexx
gọi tắt PJICO đã triển khai loại hình “bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba “. BHTNDS là nghiệp vụ bảo hiểm quan trọng, nó
đồng thời thực hiện hai mục tiêu là:
- Thực hiện tốt nghị định 115/1997 NĐ/CP (quy định về chế độ bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giớ nhằm bảo vệ quyền lợi chính
đáng và hợp pháp co những người bị thiệt hại về thân thể và tài sản do cơ giới
gây ra, đồng thời giúp chủ xe cơ giới khắc phục được hậu quả).
- Đóng góp không nhỏ trong tổng doanh thu hàng năm của công ty.
PJICO mới tham gia hoạt động trên thị trường bảo hiểm được 6 năm,
nhưng đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường bảo hiểm và triển khai
nghiệp vụ BHTNDS có hiệu quả. Nhưng cũng không thể tránh khỏi những thiếu
xót, vướng mắc trong quá trình hoạt động, triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách
nhiệm dân sự từ khâu khai thác đến khâu bồi thường. Qua thực tế của công ty
cùng với vai trò to lớn của nghiệp vụ bảo hiệm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba, sau thời gian thực tập tại văn phòng KVI -28C Lê
Ngọc Hân em đã chọn đề tài: “Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao
tính bắt buộc trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba tại công ty cổ phần bảo hiểm PJICO”
Nội dung đề tài gồm:
Chương I. Những vấn đề chung về BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba.

2000 bình quân hàng năm phương tiện cơ giới đường bộ tăng 17,8% trong đó ô
tô tăng 7,6%, xe máy là xấp xỉ 19,5. Năm 2000 so với 1990 phương tiện cơ giới
đường bộ tăng 4,5 lần; ôtô tăng 2,14 lần; xe máy tăng 4,63 lần trong đó năm
1993 phương tiện tăng cao nhất. Từ năm 1998 đến nay tỷ lệ này giảm khoảng
7%.
- Tuy nhiên năm gần đây mức tăng pưhơng tiện cơ giới đường bộ khá cao
nhưng mức cơ giới hoá của Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước trong khu
vực.
Việt Nam có 75 xe/1.000 dân trong khi Thái Lan 190 xe/1.000 dân,
Malasia 340 xe/1.000 dân.
- Tỷ lệ xe cũ nát cao, điều kiện an toàn thấp, tổng số phương tiện ô tô vào
kiểm định so với thực tế lưu hành còn qúa thấp (số phương tiện chạy bằng xăng
là 45%,dicsel là 55%).
Số lượng xe theo đăng ký chênh lệch với số xe thực tế hoạt động, theo số
liệu đăng ký thì tổng số ôtô năm 2000 là 750.000 xe nhưng số xe vào kiểm định
(lưu hành trên đường) là chưa đến 500.000 xe. Theo các nhà chuyên gia trong
thập kỷ tới phương tiện cơ giới của nứoc ta vẫn tăng cao, mức tăng trưởng chỉ
căn cứ dự báo theo GDP thì cứ mỗi năm khi GDP tăntg 1% thì tổng lượng vận
taỉ đường bộ tăng từ 1.2% đến 1.5%, đặc biệt trong giai đoạn tới (2.006) nước ta
thực hiện các cam kết cắt giảm thuế thì lượng xe bung ra càng nhiều.
Bảng 1: Viện chiến lược bộ GTVT dự báo phương tiện cơ giới đường bộ
như sau:
Năm 2000 2010 2020
Tổng số xe các loại (chiếc) 750.000 1.400.000 3.200.000
Tổng số xe máy (chiếc) 6.000.000 8.000.000 12.000.000
(Nguồn: Theo báo cáo thống kê của Uỷ Ban An Toàn Quốc Gia)
b. Tình hình tai nạn giao thông và nguyên nhân:
Tai nạn giao thông là một vấn đề mang tính xã hội: Các nước trên thế giới
đều phải đối mặt với tình trạng tai nạn giao thông gia tăng (dù ở các mức độ
khác nhau) như đối mặt với các vấn đề xã hội khác. Theo số liệu thống kê của

Như vậy tai nạn giao thông là mối đe doạ từng ngày từng giờ đối với các
chủ phương tiện, mặc dù nhà nước đã có nhiều biện páhp ngăn ngừa, hạn chế tai
nạn một cách tích cực song vẫn không thể tránh khỏi. Khi tai nạn xảy ra thì việc
giải quyết hậu quả thường phức tạp, kéo dài, cho dù nhà nước có quy định rõ
chủ phương tiện phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng
và tài sản do việc lưu hành xe của mình gây ra theo nguyên tắc “gây thiệt hại
bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu”.
Phần lớn các vụ tai nạn xảy ra đều bồi thường theo thoả thuận giữa chủ
phương tiện và người bị hại nên dẫn đến nhiều khúc mắc trong việc bồi thường
(hoặc bồi thường không xứng đáng hoặc bồi thường không đúng thiệt hại thực
tế), có những vụ tai nạn chủ xe không có điều kiện để giải quyết bồi thường,
nhiều trường hợp lái xe bị chết trong vụ tai nạn đó cho nên việc giải quyết tai
nạn trở nên khó khăn hơn.
Nhằm đảm bảo lợi ích cho người bị hại và giảm bớt gánh nặng cho chủ xe
BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời và đáp ứng kịp thời
nhu cầu của xã hội. Chính phủ đã ban hành NĐ30/HĐBT và bây giờ được thay
bằng NĐ 115/CP/1997 “về chế độ thực hiện bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ
xe cơ giới”. Như vậy càng khẳng định quyết tâm của Chính phủ thực hiện triệt
để loại hình bảo hiểm này. Đây là cơ sở pháp lý nhất để các công ty bảo hiểm
đẩy mạnh công tác bảo hiểm cho chủ xe cơ giới tại Việt Nam.
3. Tác dụng của BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
a. Đối với chủ xe.
BHTNDS của chủ xe cơ không chỉ có vai trò to lớn đối với người bị thiệt
hiại mà còn cả xã hội, nó là tấm lá chắn vững chắc cho các chủ xe khi tham gia
giao thông.
- Tạo tâm lý yên tâm, thoải mái, tự tin, khi điểu khiển các phương tiện
tham gia giao thông.
- Bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh TNDS, trong đó
có lỗi của chủ xe thì công ty bảo hiểm nơi mả chủ xe tham g ia ký kết bảo hiểm
tiến hành bồi thường nhanh chóng để các chủ xe phục hồi lại tinh thần, ổn định

BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba lại khẳng định sự cần thiết
khách quan cũng như tính bắt buộc của nghiệp vụ BHTN dân sự của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BHTNDS CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA.
1. Đối tượng bảo hiểm:
a. Đối tượng được bảo hiểm.
Theo điều 5 chương II của NĐ 115 CP/1997.
* Đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân cư của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba. Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là
trách nhiệm bồi thường hay nghĩa vụ ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho
người thứ ba do việc lưu hành xe gây tai nạn.
* Điều kiện để được bảo hiểm.
Đối tượng bảo hiểm không được xác định trước, chỉ khi nào việc lưu hành
xe gây tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể.
b. Điều kiện để phát sinh bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Thông thường phải có đủ bốn điều kiện sau:
- Điều kiện thứ nhất: Phải có thiệt hại về tài sản, tính mạng hay sức khoẻ
của bên thứ ba.
- Điều kiện thứ hai: Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể
do vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm
quy định khác của Nhà nước
- Điều kiện thứ ba: Phải có mối quan hệ nhân quả của hành vi trái pháp
luật của chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thứ ba.
- Điều kiện thứ tư: Chủ xe (lái xe) phải có lỗi.
Thực tế chỉ cần thực hiện ba điều kiện thứ 1,2,3 là phát sinh trách nhiệm
dân sự đối với người thứ ba của chủ xe (lái xe). Nếu thiếu một trong ba điều
kiện trên trách nhiệm dân sự của chủ xe sẽ không phát sinh, và do đó sẽ không
phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện thứ tư có thể có hoặc có thể
không vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do tính nguy hiểm cao độ của xe cơ giới mà

3 điều 2 chương I QĐ số 299/QĐ - BTC/1998).
Trong BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, cac sthiệt hại
nằm trong phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm bao gồm:
- Thiệt hạ về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba.
- Thiệt hại về tài sản hàng hoá của bên thứ ba.
- Thiệt hại về tài sản làm thiệt hại đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu
nhập.
- Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa
hạn chế thiệt hại, các chi phí đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả biện pháp
không mang lại hiệu quả).
Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu
chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân người được bảo
hiểm mà công ty bảo hiểm có thẻ mở rộng phạm vi bảo hiểm của mình cho
những rủi ro khác. Những bảo đảm bổ xung xong BHTNDS của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba kéo theo một khoản phí đóng thêm của người khác được
bảo hiểm.
b. Các rủi ro loại trừ: theo điều 13 chương II QĐ 299/1998/QĐ - BTC.
Người được bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe trong các
trường hợp sau:
- Tai nạn xảy ra do hành động xấu, cố ý của chủ xe, lái xe.
- Tai nạn xảy ra do hành động xấu, cố ý của người thứ ba.
- Xe không có giấy phép lưu hành.
- Lái xe chưa đủ tuổi lái xe theo quy định của pháp luật.
- Lái xe không có bằng lái hoặc có những không hợp lệ hoặc bằng lái xe
bị đình chỉ hay tạm giữ.
- Điều khiển xe trong tình trạng say rượu, bia, ma tuý, hay các chất kcíh
thích tương tự khác...
- Lái xe sử dụng không được sự đồng ý của chủ xe.
- Xe được sử dụng để chuyên chở chất cháy, chất nổ trái phép.

nghiệp bảo hiểm có thể thoả thuận với chủ xe cơ giới để đảm boả theo biểu phí
cao hơn hoặc phạm vi rủi ro bảo hiểm rộng theo quy tắc bảo hiểm, biểu phí mà
doanh nghiệp bảo hiểm đã đăng ký với Bộ Tài Chính.
Phí bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự được tính theo
đầu phương tiện. Người tham gia bảo hiểm đóng phí BHTNDS của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba theo số lượng đầu phương tiện của mình.
Mặt khác, các đầu phương tiện khác nhau về chủng loại, về độ lớn có xác
suất gây ra tai nạn khác nhau. Do đó phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại
phương tiện (hoặc nhóm phương tiện) tuỳ theo mỗi đầu phương tiện.
b. Phương pháp tính phí.
Do phí BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được thu theo
mỗi đầu phương tiện hay thu theo số lượng mỗi loại phương tiện hoạt động. Các
phương tiện khác nhau có xác suất gây ra tai nạn khác nhau. Nên phí bảo hiểm
được tính riêng cho từng loại phương tiện (thường tính theo năm) là:
P =f +d.
Trong đó: p - phí bảo hiểm/phương tiện.
f - phí thuẩn.
d - phụ phí.
Phí thuần được xác định theo công thức.
F =
Trong đó: Si - số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của
chủ xe được bảo hiểm bồi thường trong năm i.
Ti - số tiền bồi thường bình quân một vụ tai nạn trong năm i/
Ci - số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong năm i.
n - số năm thống kê thường từ 3 -5 năm i = (1,n)
Như vậy thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ n năm
cho mỗi đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong thời kỳ đó.
Ở Việt Nam thì phụ phí thường từ 20% - 30% phí cơ bản.
d =
Đây là cách tính bảo hiểm cho các phương tiện giao thông thông dụng

+ Do các chi phí trong quản lý nghiệp vụ tăng.
+ Chi phí khai thác, giám định bồi thường tăng.
- Do chủ xe tham gia bảo hiểm nhưng quá thời hạn đóng phí.
- Ngoài ra: Những lái xe không có kinh nghiệm, không thuộc đường,
không thuộc các biển báo xe trên các trục lộ đường. Trước khi tham gia bảo
hiểm chủ xe không khai báo tiền sử các vụ tai nạn đã xảy ra trước đây để công
ty bảo hiểm còn biết có nên ký hợp đồng bảo hiểm với chủ xe hay bị tai nạn
giao thông hoặc tăng mức phí nếu nhà bảo hiểm yêu cầu.
4. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia.
a. Trách nhiệm và quyền lợi của chủ xe cơ giới.
* Trách nhiệm của chủ xe cơ giới: theo điều 8 chương I QĐ số 299/1998/
QĐ - BTC thì chủ xe cơ giới phải thực hiện như sau:
- Thứ nhất: Khi yêu cầu bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải kê khai đầy đủ và
trung thực những nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm và đóng phí boả hiểm.
- Thứ hai: Khi tia nạn giao thông xảy ra, chủ xe cơ giới phải có trách
nhiệm:
+ Cứu chữa, hạn chế thiệt hại về tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn, báo
ngay cho cảnh sát giao thông nơi gần nhất để phối hợp giải quyết tai nạn. Trừ
khi có một số lý do chính đáng, trong vòng 5 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn, chủ
xe cơ giới phải gửi cho doanh nghiệp bảo hiểm giấy báo tai nạn ghi rõ (ngày
giờ, địa điểm xảy ra tia nạn, giấy đăng ký giấy thông báo tai nạn,họ ten chủ xe,
lái xe, nguyên nhân tai nạn và biện pháp xử lý ban đầu...).
+ Không được di chuyển tháo dỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý
kiến của doanh nghiệp bảo hiểm, trừ trường hợp làm như vậy là cần thiết để đảm
bảo an toàn coh người và tài sản hoặc phải thi hành theo yêu cầu của cơ quan có
thẩm quyền.
- Thứ ba: Bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho
doanh nghiệp bảo hiểm trong phạm vi số tiền đã bồi thường kèm theo toàn bộ
chứng từ có cần thiế liên quan tới trách nhiệm của người thứ ba.
- Thứ tư: Chủ xe cơ giới phỉa trung thực trong việc thu thập và cung cấp

- Công ty bảo hiểm có trách nhiệm giám định tai nạn và hậu quả tai nạn
khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm. Nếu qua xác minh thấy vụ tai nạn thuộc
phạm vi trách nhiệm của công ty thì công ty xúc tiến các công việc như sau:
+ Phối hợp với công an, cảnh sát giao thông tiến hành giám định hiện
trường, xác định mức lỗi của mỗi bên.
+ Tranh thủ ý kiến của chủ xe và lời khai báo của nhân chứng qua tờ khai
tai nạn kết hợp với hiện trường nghiên cứu các tài liệu cần thiết và xem xét lại
một lần nữa nguyên nhân tai nạn.
+ Tiến hành xác định minh thiệt hại đối với người thứ ba.
- Sau khi giám định xong công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi
thường coh người bị hại khi rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm theo phần lỗi của chủ
xe (bồi thường thiệt hạ về người, về tài sản).
- Các công ty bảo hiểm phải có các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất,
xây dựng cải tạo đường xá cầu cống, hoàn chỉnh hệ thống đèn báo, biển báo
giao thông. Ngoài ra còn giáo dục ý thức cho chủ xe (lái xe) thực hiện tốt an
toàn giao thông.
* Quyền lợi của công ty bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm được phép sử dụng phí bảo hiểm để sử dụng các mục
đích của mình (chi bồi thường, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi các hoạt động
đầu tư).
- Nhà bảo hiểm có quyền giám sát thực hiện đề phòng, ngăn ngừa tai nạn
chủ xe hoặc các bên có liên quan trong việc tục lơi bảo hiểm (lập hồ sơ giả, khai
báo không trung thực...).
5. Công tác giám định và giải quyết bồi thường.
a. Thiệt hại của ben thứ ba: theo quy định của pháp luật việc xác định
mức độ thiệt hại về tài sản, tính mạgn và sức khoẻ của con người trong tai nạn
xe cơ giới căn cứ vào nguyên tắc và cách thức xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
* Đối với thiệt hại về tài sản.
- Trường hợp thứ nhất: tài sản bị mất, bị hư hỏng hạc bị huỷ hoại mà

+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng người thứ ba (những chi phí do hủ tục
sẽ không được thanh toán).
+ Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải cung cấp nuôi
dưỡng (vợ, cồng, con cái... đặc biệt trong trường hợp người thứ ba là lao động
chính trong gia đình). Khoản tiền trợ cấp này được xác định tuỳ theo quy định
của mỗi quốc gia, tuy nhiên sẽ được tăng thêm nếu hoàn tcảnh gia đình thực sự
khó khăn.
b. Tính toán mức bồi thường của người gây thiệt hại.
+ Mức độ lỗi của người gây thiệt hại.
+ Thiệt hại thực tế của bên thứ ba.
Công thức xác định mức bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường = lỗi của người gây thiệt hại x thiệt hại của bên
thứ ba.
Trường hợp cả hai bên đều gây thiệt hại và bên thiệt hại cùng có lỗi thì
bên gây thiệt hại vẫn phải bồi thường phù hợp với mức lỗi của họ. Nếu hai xe
đâm nhau với bên với mức lỗi ngang nhau thì bảo hiểm có trách nhiệm bồi
thường cho mỗi bên với mức bằng 50% thiệt hại của bên kia.
Trong trường hợp chủ xe còn có một bên thứ khác cùng có lỗi gây ra tai
nạn đó:
Số tiền bồi thường = (lỗi của chủ xe + lỗi của chủ xe khác) x thiệt hại của
bên thứ ba.
Việc bồi thường được tính theo thực tế thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường
bấy nhiêu, nhưng số tiền bồi thường tối đa không vượt quá số tiền bảo hiểm đã
ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Nếu hai cùng một chủ đâm và nhau và hai xe đều bị thiệt hại đồng thời
gây thiệt hại cho người đi đường thì phần thiệt hại của hai xe không phát sinh
trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm. Nhưng phần thiệt hại của người đi đường
lại phát sinh trách nhiệm dân sự do đó bảo hiểm sẽ bồi thường theo thiệt hại
thực tế.
- Nếu hai hay nhiều xe cùng gây thiệt hại cho một hoặc một số người thì

tiếp cho nạn nhân.
Số tiền bồi thườg = thiệt hại thực tế của bên thứ ba x lỗi của chủ xe.
Trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi cua rmột người nào đó sau khi bồi
thường nhà bảo hiểm sẽ thay mătj chủ xe khiếu nại người có lỗi này. Nhà bảo
hiểm sẽ từ chối bồi thường nếu có bằng chứng chứng minh được sự thông đồng
gian lận giữa nạn nhân và người được bảo hiểm.
Việc bồi thường của nhà bảo hiểm được tiên shành trong một lần, tuy
nhiên óc những trường hợp để giảm bớt những khó khăn về tài chính cho chủ
xe, nhà bảo hiểm có thể cho chủ xe ứng trước một số tiền bồi thường. Sau khi đã
hoàn chỉnh hồ sơ, tính toán số tiền bồi thường cụ thể, nhà bảo hiểm sẽ trừ đi số
tiền mà chủ xe đã ứng trước đây.
Trường hợp bảo hiểm trùng, người được bảo hiểm có thể được quyền lợi
từ các hợp đồng đã ký, xong số tiền bồi thường không vượt quá mức trách
nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm đối vơí người thứ ba.
Ngoài ra nhà bảo hiểm có thể bồi thường trợ cấp tối đa không vượt quá
50% mức trách nhiệm của chủ xe đã tham gia đối với những trường hợp xe
không gây tai nạn có thể tham gia bảo hiểm nhưng không thuộc phạm vi bảo
hiểm như:
+ Lái xe không có bằng lái hợp lệ.
+ Xe chở quá trọng tải hoặc sóo hành khách quy định...
Nói chung, trách nhiệm của các công ty bảo hiểm là giúp đỡ các đơn vị,
chủ xe có tai nạn xảy ra, động viên thường xuyên có khen thưởng xứng đáng đối
với những đơn vị thực hiện tốt công tác phòng ngừa, hạn chế tổn thất. Đồng thời
công ty bảo hiểm là người đảm bảo thanh toán, bồi thường chính xác đầy đủ, kịp
thời. Bảo hiểm luôn phối hợp cùng với các cơ quan chức năng thực hiện tuyên
truyền giác ngộ người tham gia bảo hiểm cũng như việc chấp hành nghiêm
chỉnh luật lệ giao thông, thực hiện.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BHTNDS CỦA CHỦ XE CƠ
GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM

thành phần kinh tế tham gia bảo hiểm tại PJICO.
Hoạt động kinh doanh của Công ty bao gồm các nghiệp vụ bảo hiểm:
+ Nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải
+ Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải
+ Nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và tài sản
+ Nghiệp vụ tái bảo hiểm
+ Ngoài ra còn các hoạt động khác thực hiện liên quan tới bảo hiểm như
công tác giám định, điều tra, đầu tư, tín dụng...
Với mạng lưới 200 đại lý, 9 chi nhánh và 5 Văn phòng đại diện hoạt động
rộng trên 33 tỉnh, thành phố (Sài Gòn, Cần Thơ, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nghệ An,
Khánh Hoà, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình). Trụ sở chính của
Công ty ở tại 22 Láng Hạ, 5 văn phòng đại diện ở các quận huyện (Cầu Giấy,
Gia Lâm, Thanh Xuân, Hai Bà Trưng).
Công ty PJICO có mặt trên thị trường bảo hiểm đánh dấu bước khởi đầu
cho sự phát triển về Công ty cổ phần Nhà nước và sự trưởng thành có sự hoà
nhập với thị trường chung bảo hiểm Việt Nam. PJICO phá vỡ thế độc quyền của
Bảo Việt, giúp cho khách hàng có sự lựa chọn để mua bảo hiểm theo yêu cầu
chính đáng của mình.
II. THỰC TẾ CÔNG TÁC TRIỂN KHAI
Tuy mới được thành lập trên 6 năm nhưng PJICO đã vươn lên đứng thứ 4
với thị phần nghiệp vụ bảo hiểm PJICO ngày một tăng
+ Bảo Việt chiếm khoảng 53% thị phần bảo hiểm
+ Bảo Minh chiếm khoảng 26% thị phần bảo hiểm
+ PVIC chiếm khoảng 8% thị phần bảo hiểm
+ PJICO chiếm độ khoảng 5,6% thị phần bảo hiểm.
+ Các Công ty khác 7,4% thị phần bảo hiểm.
Biểu đồ 1: Biểu diễn thị phần nghiệp vụ BHTNDS của 4 Công ty bảo
hiểm và các Công ty khác năm 1999
*****
Với sức mạnh nhỏ bé và nguồn tài chính hạn hẹp nhưng kỹ thuật đến với

- Là Công ty đời sau nên đã thích ứng được với những thông tin, trang
thiết bị hiện đại, cập nhật và tiếp cận được thị trường nhanh. Đội ngũ nhân viên
trẻ, năng động, nhiệt tình, có trình độ đại học.
- Khách hàng của PJICO vừa là khách hàng trong cổ đông và ngoài cổ
đông (trong đó khách hàng tự có của Công ty đã chiếm một số lượng lớn tham
gia đều đặn hàng năm tại Công ty PJICO. Đây là điểm mạnh trong cạnh tranh thị
trường với các Công ty mạnh Bảo Việt, Bảo Ninh...).
- Ngoài những thuận lợi chủ quan là những thuận lợi khách quan như sự
bùng nổ về số lượng xe cơ giới. Từ năm 1999 đến năm 2000 bình quân hàng
năm phương tiện cơ giới đường bộ tăng 16,8%; tuy mức tăng vè số phương tiện
cơ giới tham gia lưu hành lớn nhưng mức cơ giới hoá lại thấp. đó là nguyên
nhân chính dẫn đến tình trạng tai nạn giao thông ngày một tăng, thiệt hại xảy ra
cho chính chủ xe cơ giới và người thứ ba.
Qua trên cho thấy Công ty PJICO đang đứng trước một tiền đồ mở rộng
với nhiều hướng bước. Vậy để đi con đường nào thì đó còn là cả quá trình khó
khăn đòi hỏi Công ty phải có định hướng sao cho phù hợp.
1. Công tác khai thác:
Đây là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm, khâu
này quyết định đến sự thành công hay thất bại của Công ty trong kinh doanh
nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Thực chất của
khâu khai thác là vận vận động tuyên truyền cho các chủ xe cơ giới thấy được sự
cần thiết cũng như trách nhiệm của bản thân khi xe lưu hành và gây thiệt hại cho
người khác.
PJICO đã đề ra khẩu hiệu cho hoạt động khai thác đó là “năng động, tích
cực, khoa học, nhanh và tôn trọng lợi ích của khách hàng hay cũng như cộng tác
viên”, với phương châm “ chữ tín làm trọng, coi trọng lợi ích của khách hàng là
trên hết, nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng phục vụ khách hàng”.
Ngay từ khi thành lập, Công ty đã không ngừng mở rộng địa bàn khai thác, đặt
nhiều văn phòng đại diện ở các tỉnh, thành phố lớn, hàng trăm tổng đại lý được
mở rộng ở các khu vực đông dân cư, nhiều người qua lại thuận tiện cho việc


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status