Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Cty TNHH Kiểm toán và Định giá VN - Pdf 96

Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
Sau gần hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, cho đến
nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đó
không thể không kể đến những thay đổi tích cực từ việc đổi mới, nâng cao
hoạt động của các doanh nghiệp. Bên cạnh những hoạt động cho thuê, mua
bán, sát nhập doanh nghiệp thì cổ phần hóa là hoạt động diễn ra nhiều nhất và
thu hút được sự quan tâm đông đảo của nhiều đối tượng.
Trong qua trình diễn ra các hoạt động nói trên, có thể thấy nổi lên một
vấn đề chung nhất có tầm quan trọng đặc biệt đó là xác định giá trị doanh
nghiệp, bởi lẽ bất kỳ quyết định nào liên quan đến các hoạt động nói trên
cũng sẽ phải dựa trên cơ sở của giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là
một trong những căn cứ quan trọng nhất để các bên hữu quan và Chính phủ
xem xét, đưa ra các quyết định cuối cùng liên quan đến sự phát triển trong
tương lai của doanh nghiệp, của từng ngành, từng lĩnh vực và của cả nền kinh
tế.
Công tác định giá ở nước ta mặc dù đã diễn ra từ rất lâu (đầu những
năm 90) nhưng gần đây mới thu hút được sự quan tâm của mọi người, nhất là
trong thời điểm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước.
Mặc dù chúng ta có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện công tác định giá
thông qua hàng loạt những thay đổi từ phía Nhà nước nhưng thực tế cho thấy
công tác này vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn. Cơ chế tổ chức định giá
chưa chặt chẽ, giá trị của doanh nghiệp được xác định chưa mang tính khách
quan, thiếu chính xác và tốn thời gian, chi phí. Do vậy mà công tác định giá
trong thời gian qua được đánh giá là chưa hiệu quả.
Định giá doanh nghiệp có một tầm quan trọng rất lớn đối với toàn bộ
nền kinh tế và do vậy cần có những giải pháp hoàn chỉnh và khoa học nhất để
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
4
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
làm sao nâng cao được hiệu quả của công tác này sẽ giúp thúc đẩy nhanh hơn

Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp tổng hợp như:
tập hợp, nghiên cứu tài liệu sau đó chọn lọc, phân tích, đánh giá thông tin dữ
liệu trên cơ sở các số liệu thống kê thu thập được từ Công ty Kiểm toán và
Định giá Việt Nam.
Bố cục của đề tài:
Đề tài này gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về doanh nghiệp và định giá doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty TNHH
Kiểm tóan và Định giá Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty
Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lê Đức Lữ
cùng toàn thể các anh, chị nhân viên phòng Nghiệp vụ I, công ty Kiểm toán
và Định giá Việt Nam đã tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành báo cáo
thực tập của mình.
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
6
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH
GIÁ DOANH NGHIỆP
1.1 Doanh nghiệp và các đặc điểm của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ
chức kinh tế, cá nhân nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy
mô quá nhỏ.
Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là doanh nghiệp nếu nó được sự thừa
nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó.
Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục
tiêu hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Vậy:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao

thông thường với mức giá thấp hơn rất nhiều giá trị thực của nó. Do vậy, giá
trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ được dùng cho những doanh nghiệp
đang hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
c) Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt
Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập ra để thực hiện hoạt động
sản xuất kinh doanh chứ không phải là đối tượng để bán, tuy vậy giống như
các hàng hoá thông thường khác, doanh nghiệp cũng là đối tượng của các
giao dịch: mua bán, hợp nhất, chia nhỏ,… Quá trình hình thành giá cả và giá
trị đối với loại hàng hoá này cũng không nằm ngoài sự chi phối của các quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Nhưng doanh nghiệp là
một loại hàng hóa đặc biệt, bởi nó là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố
cầu thành, ngoài việc được tạo nên bởi các tài sản hữu hình còn có các tài sản
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
8
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
vô hình như: lợi thế thương mại, thương hiệu…Hơn nữa, bản thân các yếu tố
tạo nên giá trị của doanh nghiệp luôn có sự thay đổi, luôn só sự tăng lên hay
giảm đi, có sự ra đời hay biến mất, chính vì vậy giá trị của một doanh nghiệp
cũng thay đổi theo thời gian và giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động.
d) Việc thành lập hay mua bán lại doanh nghiệp thực chất là nhằm tìm kiếm
thu nhập từ quyền sở hữu đối với doanh nghiệp đó
Con người muốn sở hữu doanh nghiệp là vì lợi nhuận. Việc sở hữu các
tài sản cố định tài sản lưu động hay sở hữu một bộ máy kinh doanh, chỉ là
cách thức, là phương tiện để đạt mục tiêu lợi nhuận mà thôi. Tiêu chuẩn để
nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ vốn và đánh giá giá trị
doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà
đầu tư trong tương lai.
1.2 Định giá doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm về định giá doanh nghiệp
Giá trị (value) là một khái niệm kinh tế có liên quan đến giá cả, chủ yếu

Xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các
khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường.
a) Giá trị thị trường.
Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán
trên thị trường vào thời điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn
sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán
khách quan và độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường:
+ “Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua
bán trên thị trường... ” là số tiền ước tính để tài sản có thể được mua, bán trên
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
10
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
thị trường trong điều kiện thương mại bình thường mà sự mua bán đó thoả
mãn những điều kiện của thị trường tại thời điểm thẩm định giá.
+ “vào thời điểm thẩm định giá...” là ngày, tháng, năm cụ thể khi tiến
hành thẩm định giá, được gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức
mua trên thị trường khi thực hiện thẩm định giá trị tài sản.
+ “giữa một bên là người mua sẵn sàng mua...” là người đang có khả
năng thanh toán và có nhu cầu mua tài sản được xác định giá trị thị trường.
+ “và một bên là người bán sẵn sàng bán...” là người bán đang có
quyền sở hữu tài sản (trừ đất), có quyền sử dụng đất có nhu cầu muốn bán tài
sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường.
+ “Điều kiện thương mại bình thường” là việc mua bán được tiến hành
khi các yếu tố cung, cầu, giá cả, sức mua không xảy ra những đột biến do chịu
tác động của thiên tai, địch họa; nền kinh tế không bị suy thoái hoặc phát triển
quá nóng…; thông tin về cung, cầu, giá cả tài sản được thể hiện công khai
trên thị trường.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá hình thành trên thị trường công khai
và cạnh tranh. Thị trường này có thể là thị trường trong nước hoặc thị trường

Giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi một tài sản này có thể gắn liền với một tài
sản khác về mặt kỹ thuật hoặc kinh tế mà sự liên kết đó chỉ thu hút mối quan
tâm đặc biệt của một số ít khách hàng mà không thu hút sự quan tâm của
nhiều người. Các yếu tố của giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi xem xét yếu tố
của giá trị tài sản đang quan tâm hoặc giá trị đầu tư. Thẩm định viên phải
phân biệt rõ ràng những thông số và nguyên nhân để vận dụng các khái niệm
giá trị thị trường nói trên thay vì sử dụng khái niệm giá trị thị trường.
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
12
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Giá trị có thể bảo hiểm (insurable value): là giá trị của tài sản quy
định trong hợp đồng bảo hiểm.
- Giá trị có thể tính thuế (taxable value): là giá trị trong phạm vi luật
pháp liên quan đến việc thuê mướn hoặc thu thuế tài sản. Mặc dù một số văn
bản pháp quy trích
- Giá trị đầu tư (investment value): là giá trị của một tài sản đối với một
số nhà đầu tư áp dụng cho một dự án đầu tư nhất định. Khái niệm này liên quan
đến những tài sản riêng biệt với những nhà đầu tư riêng biệt. Không nên nhầm lẫn
giữa giá trị đầu tư và giá trị thị trường. Giá trị đầu tư của một tài sản có thể cao
hơn hoặc thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đó. Tuy nhiên giá trị thị trường có
thể phản ánh một số đánh giá cá nhân về giá trị đầu tư. Giá trị đầu tư có liên quan
đến giá trị đặc biệt
- Giá trị đang sử dụng (Value in use): là giá trị các tài sản khi nói đang
được một người cụ thể sử dụng cho một mục đích nhất định. Vì vậy, tài sản
đó không liên quan đến thị trường. Loại giá trị này đóng góp vào một doanh
nghiệp với tư cách là một bộ phận của tài sản doanh nghiệp, không tính đến
giá trị sử dụng tối ưu và tốt nhất của tài sản cũng như số tiền mà tài sản đó
mang lại khi nó được mang ra bán. Xét trên giác độ kế toán, giá trị đang sử
dụng là giá trị hiện tại của luồng tiền mặt ước tính có thể mang lại trong
tương lai kể từ khi bắt đầu sử dụng tài sản đến khi thanh lý tài sản.

- Môi trường văn hoá xã hội: Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi
những quan niệm, những hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức. Thể
hiện trong quan niệm về “chân, thiện, mỹ” quan niệm về nhân cách, văn minh
xã hội, thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi,
mật độ, …..
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
14
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Môi trường khoa học công nghệ: Sự tác động của kỹ thuật - công nghệ
đang làm thay đổi một cách căn bản các điều kiện về quy trình công nghệ và
phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Sản phẩm
sản xuất ra ngày càng đa dạng, phong phú, hàm lượng tri thức có khuynh
hướng chiếm ưu thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm.
Sự nhảy vọt của nền văn minh nhân loại không chỉ là cơ hội mà còn là
thách thức đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá về
doanh nghiệp phải chỉ ra được mức độ tác động của môi trường này đến sản
xuất kinh doanh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước những bước
phát triển mới của khoa học- công nghệ.
b) Môi trường đặc thù
- Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng: Thị trường đối với doanh
nghiệp thể hiện bằng yếu tố khách hàng, thông thường khách hàng sẽ chi phối
hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng cũng có trường hợp khách hàng lại bị lệ
thuộc vào khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Do vậy muốn đánh giá đúng
khả năng phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải
xác định tính chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan
hệ với khách hàng và đặc biệt là thị phần hiện tại, thị phần tương lai, doanh số
bán ra và tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu đó qua các chu kỳ kinh doanh.
- Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp: Doanh nghiệp thường phải
trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hoá, nguyên vật liệu,

Thứ nhất: Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật
chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất
lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loạ tài sản là yếu tố quyết
định đến số lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra.
Thứ hai: Giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và
là một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị doanh nghiệp. Vì thay cho việc dự
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
16
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ
lúc nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó.
Chính vì vậy, người ta thường đánh giá cao các phương pháp có liên
quan trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp.
- Vị trí kinh doanh: Được đặc trưng bởi các yếu tố như: địa điểm, diện
tích của doanh nghiệp và các chi nhánh thuộc doanh nghiệp, yếu tố địa hình,
thời tiết….
Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh. Ví
dụ: Những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, được
đặt gần đô thị, các nơi đông dân cư, các trung tâm buôn bán lớn và các đầu
mối giao thông quan trọng có thể đem lại rất nhiều lợi thế cho doanh nghiệp
như: Chi phí vận chuyển, bảo quản, chi phí lưu kho, … Đồng thời doanh
nghiệp có những thuận lợi lớn để tiếp cận và nắm bắt nhanh chóng nhu cầu,
thị hiếu của thị trường, thực hiện tốt các dịch vụ hậu thương mại… Tuy nhiên,
với vị trí đó cũng có thể kéo theo sự gia tăng một số khoản chi phí như thuê
văn phòng giao dịch thuê lao động…
Vì vậy vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan
trọng hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá giá trị doanh nghiệp.
- Uy tín kinh doanh: Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng
về sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố
khác nhau từ bên trong doanh nghiệp, như: Do chất lượng sản phẩm cao, do

tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần với thời điểm
định giá cũng có thể cho phép rút ra những kết luận quan trọng về năng lực
quản trị và sự tác động của nó đến giá trị doanh nghiệp.
1.2.4. Sự cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
18
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị
doanh nghiệp là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ
mô cũng như hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin về giá trị
doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là mối quan tâm của các pháp nhân và thể
nhân có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các doanh nghiệp được đánh
giá. Sự cần thiết của định giá trị doanh nghiệp được xuất phát từ các yêu cầu
quản lý và các giao dịch:
a) Đối với bản thân doanh nghiệp được định giá
- Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu
từ những năm 90 và đã cho những kết quả tương đối tốt, không ít các doanh
nghiệp sau khi cổ phần hóa đã đi vào làm ăn hiệu quả, kinh doanh có lãi, vai
trò của người lao động được nâng lên, quy mô sản xuất được mở rộng. Tính
hiệu quả của hoạt động này đã phát huy rất rõ và tiến trình đẩy nhanh cổ phần
hóa ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, vấn đề xác định giá trị
phần vốn góp nhà nước tại doanh nghiệp hiện vẫn đang còn nhiều tranh cãi và
là bước cản lớn nhất trong cả tiến trình, do đó, việc nâng cao chất lượng công
tác định giá sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động cổ phần hóa diễn ra
được nhanh chóng hơn.
- Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán,
sáp nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ các doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch
diễn ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản
ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho
sự tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả

doanh, về khả năng tài chính và vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra các
quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc có tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp
nữa hay không.
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
20
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
d) Đối với nền kinh tế nói chung
Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế
vĩ mô: Giá cả của các loại chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của
doanh nghiệp có chứng khoán được trao đổi, mua bán trên thị trường. Vì vậy,
trên phương diện quản lý nền kinh tế vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp
là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, các
hiệp hội kinh doanh chứng khoán đánh giá tính ổn định của thị trường, nhận
dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường, thâu tóm quyền kiểm soát
doanh nghiệp … để từ đó có thể đưa ra các chính sách điều tiết thị trường một
các phù hợp.
Có thể nói, các hoạt động quản lý và những giao dịch kinh tế thông
thường trong cơ chế thị trường đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải xác định giá trị
doanh nghiệp. Chúng là mối quan tâm của 3 loại chủ thể, đó là: Nhà nước,
nhà đầu tư và nhà quản trị doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp vì vậy là một
đòi hỏi tất yếu đối với các quốc gia muốn xây dựng và phát triển kinh tế theo
cơ chế thị trường. Đối với Việt Nam, nền kinh tế mới được chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, những nỗ lực cải cách nền
kinh tế đã được thế giới công nhận và đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), thì nhu cầu xác định giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị
doanh nghiệp như thế nào càng trở nên cấp thiết vì trong quá trình chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị doanh nghiệp còn là một bước đi quan
trọng để các quốc gia tiến hành cải cách doanh nghiệp Nhà nước, như: cổ
phần hoá, sát nhập, hợp nhất hay giao, bán, khoán và cho thuê nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này để đủ sức đứng vững và

để đảm bảo chất lượng của công tác này việc thực hiện theo đúng quy trình là
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
22
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
một yêu cầu tất yếu. Các bước công việc cần được thực hiện tuần tự và phải
tuân thủ theo nguyên tắc chung đặt ra như vậy công việc định giá sẽ được
thực hiện nhanh chóng, tránh thiếu sót và bám sát với kế hoạch đã định.
 Công tác định giá dựa trên phương pháp định giá linh hoạt và khoa học
Đối với bất cứ hoạt động nào, nếu không có một phương pháp khoa học
thì hiệu quả của công việc sẽ không đạt được như ý muốn thậm chí còn gây
thiệt hại. Đối với công tác định giá cũng vậy, định giá doanh nghiệp bằng các
phương pháp khác nhau sẽ cho các kết quả khác nhau. Vì vậy, việc áp dụng
phương pháp nào cần phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn. Đó
chính là tính khoa học của phương pháp định giá được áp dụng.
 Công tác định giá phải bám sát với giá thị trường
Các chuyên gia kinh tế nhận định rằng, định giá doanh nghiệp là hoạt
động khoa học có tính tổng hợp và khả năng dự đoán cao vì quá trình định giá
doanh nghiệp không chỉ căn cứ vào các thông tin hiện có của doanh nghiệp,
cung cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, lợi thế kinh doanh
của doanh nghiệp, giá trị các tài sản tương đương với tài sản của doanh
nghiệp, nhu cầu mua, bán về loại hình doanh nghiệp đang định giá…Gía trị
doanh nghiệp không thể tự xác định được nếu không gắn nó với thị trường,
chỉ có thông qua thị trường, giá trị các tài sản của doanh nghiệp mới phản ánh
một cách chính xác và khách quan. Chính vì vậy đòi hỏi các chuyên gia định
giá phải phải nắm vững kỹ thuật và đặc biệt là phải luôn gắn yếu tố thị trường
vào khi định giá.
 Công tác định giá phải đảm bảo tốn ít thời gian và chi phí nhất.
Chất lượng của công tác định giá doanh nghiệp không thể coi là tốt khi
mà tiêu chí về thời gian và chi phí không được đảm bảo. Trong nền kinh tế thị
trường, các chủ thể tham gia luôn có sự cạnh tranh, các cơ hội kinh doanh

Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
24
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Đối với nhà đầu tư đa số, việc bỏ tiền ra mua doanh nghiệp không
phải nhằm để trông đợi một cách thụ động có tính chất may rủi về những
khoản lợi tức cổ phần mà doanh nghiệp “ có thể” sẽ trả trong tương lai. Theo
quan điểm của nhà đầu tư đa số, mua doanh nghiệp giống như việc đổi lấy
một dự án đang được triển khai, giống như việc đổi lấy một cơ hội, để theo đó
nhà đầu tư sau khi nắm quyền kiểm soát còn có thể điều khiển dự án- doanh
nghiệp, hoạt động theo những dự định, những ý tưởng và sự tính toán của
riêng mình.
- Đối với nhà đầu tư, quá trình SXKD là một quá trình phát sinh các
dòng tiền vào và các dòng tiền ra ( xem sơ đồ 1.1):
Sơ đồ 1.1: Biểu diễn các dòng tiền của dự án đầu tư.
Nhà đầu tư luôn đánh giá mọi việc trên cơ sở các dòng tiền. Họ chỉ
quyết định mua doanh nghiệp trên cơ sở xem xét và đánh giá doanh nghiệp
theo tiêu chuẩn hiệu quả của dự án đầu tư. Tức là, người ta còn phải xem xét,
cân nhắc đến số lượng vốn phải tiếp tục bỏ ra trong tương lai, độ lớn của các
khoản thu nhập có thể đạt được. Và đặc biệt, trên quan điểm thời giá của tiền
tệ và đầu tư là hoạt động bỏ vốn với số lượng lớn, trong một khoảng thời gian
dài, cho nên, yếu tố mà người ta không thể bỏ qua là thời điểm phát sinh các
dòng tiền đó.
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
+A
-A
-A
+A
-A
+A
+A

+
+
+
=

=
Trong đó:
+ V
o
: Giá trị doanh nghiệp.
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
“ Dòng tiền vào” là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đưa lại
dưới hình thức: Trích khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận thuần hàng
năm và các khoản vốn doanh nghiệp thu được khi dự án đầu tư kết
thúc.
“ Dòng tiền ra” là những khoản chi đầu tư vào doanh nghiệp, bao gồm
các khoản vốn đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động thường
xuyên trong tương lai đối với doanh nghiệp.
26
Dòng tiền thuần của dự
án đầu tư
=
Dòng tiền vào
-
Dòng tiền ra
Trong đó:
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
+ CF
t
: thu nhập thuần năm thứ t

Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
27
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Khó khăn trong khi dự báo các tham số : i, n…
- Đối với các doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh hoặc có
chiến lược kinh doanh không rõ ràng khó áp dụng phương pháp này.
- Đòi hỏi phải có một lượng thông tin lớn.
b) Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức (DDM)
- Giá trị doanh nghiệp (đối với chủ sở hữu) bằng tổng giá trị các loại cổ
phiếu mà doanh nghiệp đã phát hành.
- Giá trị doanh nghiệp (tổng thể) bằng tổng giá trị các loại cổ phiếu
cộng giá trị của các trái phiếu mà doanh nghiệp đang lưu hành và giá trị các
khoản nợ khác.
* Phương pháp xác định:
Công thức tổng quát xác định giá trị thực của các loại chứng khoán như sau:

=
+
=
+
++
+
+
+
=
n
t
t
t
t

o
i
Pn
i
i
R
i
Pn
i
Rt
V
)1(
)1(1
)1()1(
1
+
+
+−
×=
+
+
+
=

=

Trong đó:
+ Pn: Mệnh giá trái phiếu phải trả vào năm thứ n.
- Xác định giá trị thực của cổ phiếu
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status