Những khó khăn khi học theo hình thức tín chỉ của sinh viên - Pdf 13

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu đối với mỗi cá nhân ngày càng
cao.Vai trò của giáo dục và đào tạo nói chung, đào tạo đại học nói riêng có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao cho
đất nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO và đang
trên đà phát triển, chuyển đổi cơ cấu từ một nước nông nghiệp sang công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Để có thể nắm bắt toàn diện những kiến thức chuyên môn ở
bậc đại học đòi hỏi mỗi sinh viên phải có nhiều nỗ lực trong hoạt động học tập,
đặc biệt phải giành thời gian cho việc tự học, tự nghiên cứu. Hiện nay, các
trường đại học ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam đã và đang đào tạo sinh viên
theo hình thức học tín chỉ lấy nhân tố người học làm trung tâm trong việc giáo
dục. Vấn đề tự học đóng vai trò quan trọng trong việc giúp sinh viên lĩnh hội
kiến thức môn học cũng như phát huy năng lực của bản thân trên cơ sở chính là
sự hướng dẫn của giảng viên.
Trong bối cảnh đó, để nâng cao chất lượng của sinh viên của nhà trường, từ
năm học 2013- 2014 Trường Đại học Lao Động – Xã Hội (CSII) đã đưa hình thức
đào tạo theo tín chỉ vào hệ thống đào tạo của trường thay đổi hình thức đào tạo
niên chế trước đây. Sinh viên khóa K13 là thế hệ sinh viên đầu tiên được nhà
trường đào tạo theo hình thức mới này, tuy nhiên vì là lần đầu áp dụng hình thức
mới, sinh viên cũng như Nhà trường đã gặp không ít những khó khăn, bất cập
trong việc áp dụng phương pháp học tập, giảng dạy . Sinh viên vẫn còn rất nhiều
vướng mắc, khó khăn khi học tập, chưa thực sự dành nhiều thời gian cho việc tự
học, chưa xây dựng và rèn luyện được kĩ năng tự học hợp lí. Do vậy, vấn đề nghiên
cứu các biện pháp phát huy tính tích cực của sinh viên khi học theo phương thức
tín chỉ ngay từ những năm đầu là vấn đề cần được quan tâm. Vì tính cấp thiết của
đề tài, chúng em đã thực hiện bài tiểu luận “ Những khó khăn khi học theo hình
thức tín chỉ của sinh viên khóa K13 tại trường Đại học Lao Động – Xã Hội
(CSII)” nhằm tìm ra nguyên nhân cũng như đưa ra một số giải pháp, kiến nghị cho
vấn đề.
2. Lịch sử nghiên cứu

gồm 04 lớp quản trị nhân lực, 04 lớp Kế toán, 01 lớp Công tác xã hội, 01 lớp Bao
hiểm và 01 lớp Quản trị kinh doanh. Vì số lượng sinh viên các lớp cao và nhiều lớp
nên nhóm chúng em chỉ thực hiện nghiên cứu trong phạm vi 02 lớp của khoa Quản
lý lao động : Đ13NL2 và Đ13NL4 nhằm thu hẹp phạm vi, dễ dàng trong công tác
điều tra, nghiên cứu cũng như trao đổi giữa các bạn sinh viên.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một
người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm thời gian lên lớp, thời
gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định
ở thời khóa biểu và thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề,
viết hoặc chuẩn bị bài. Đào tạo theo tín chỉ không tổ chức theo năm học mà theo
học kỳ. Một năm học có thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kỳ, mỗi chương trình
đào tạo của một ngành học nhất định không tính theo năm mà tính theo sự tích lũy
kiến thức của sinh viên, sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ quy định cho một ngành
học thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường.
5.2: Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện bài tiểu luận này nhóm chúng em đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu nhằm thu thập thông tin cũng như phân tích vấn đề đặt ra.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Là hệ thống các câu hỏi được xếp đặt
trên cơ sở các nguyên tắc: tâm lý, logic và theo nội dung nhất định; nhằm tạo điều
kiện cho người được hỏi thể hiện được quan điểm của mình với những vấn đề
thuộc về đối tượng nghiên cứu và người nghiên cứu thu nhận được các thông tin cá
biệt đầu tiên đáp ứng các yêu cầu của đề tài và mục tiêu ngiên cứu.
Sưu tầm tài liệu: Trong bài này nhóm em dung phương pháp sưu tầm tài
liệu từ giáo trình, sách tham khảo, tài liệu trên mạng để thu thập các thông tin
liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Sau khi thu thập được những thông
tin cần thiết qua phương pháp điều tra bảng hỏi và phương pháp sưu tầm tài liệu;
thì tiến hành thống kê các thông tin và số liệu có được; xem thông tin và số liệu

Việc nghiên cứu đề tài “Những khó khăn khi học theo hình thức tín chỉ của
sinh viên khóa K13 tại trường Đại học Lao Động – Xã Hội (CSII)” không chỉ phục
vụ việc học tập cho cá nhân và tập thể lớp ĐH12CT mà nó còn mang những ý
nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Ý nghĩa lý luận: Việc chuyển đổi hệ thống đào tạo theo tín chỉ cho thấy
tầm nhìn mới của Nhà trường trong phương thức đào tạo trong quá trình phát triển
bền vững. Bên cạnh đó cũng cho thấy hình thức dào tạo này phù hợp với sự chuyển
hướng tất yếu trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Trong khi các trường Đại
học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu đồng bộ chuyển qua hình thức
này trong bảy năm trở lại đây( theo Công văn số 10105/BGDĐT-ĐH&SĐH ngày
21/9/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ năm học 2007-2008 về giáo dục đại học) thì Trường Đại học Lao Động –
Xã Hội (CSII) chỉ mới áp dụng hình thức đào tạo tín chỉ trong năm học 2013 –
2014, điều đó cũng cho thấy Nhà trường đã bắt đầu có những hoạch định phát triển
theo quy mô rộng lớn hơn, thay đổi cách thức đào tạo nâng cao chất lượng học của
sinh viên. Đây cũng được coi là năm thí điểm hình thức này cho sinh viên theo học
tại trường tạo tiền đề cho các khóa sau khi hình thức này được nhân rộng trên quy
mô toàn trường. Không chỉ vậy việc thay đổi hình thức đào tạo đã tạo nên những
thay đổi tích cực trong ý thức học tập của sinh viên, sinh viên cũng chủ động trong
việc tự tìm hiểu và nghiên cứu các đề tài khoa học phục vụ cho việc tìm hiểu sâu
vào kho tàng kiến thức rộng lớn của nhân loại.
Ý nghĩa thực tiễn: Ngoài những ý nghĩa lý luận vừa nêu việc nghiên cứu
đề tài cũng thấy chuyển đổi hình thức đào tạo đã và đang đem lại những lợi ích
nhất định cho sinh viên học tập rèn luyện tại trường. Sinh viên được chủ động, linh
hoạt trong chính việc học tập của bản thân mình, bên cạnh đó cũng tạo điều kiện
cho nàh trường trong việc sắp xếp quy trình học, rút ngắn quá trình đạo tạo nhưng
không làm giảm chất lượng thực của sinh viên. Ngoài ra, chương trình học của sinh
viên cũng được chia làm những phần cụ thể theo một trật tự logic nhất định, chú
trọng cho sinh viên thực hành nhiêu hơn thay cho hình thức học nặng về lý thuyết
trước đây. Chương trình đào tạo theo hệ tín chỉ cũng bộc lộ những ưu điểm thuyết

1.2 Đơn vị tín chỉ (credit unit)
Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 – 45 tiết thực hành,
thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 – 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 – 60 giờ làm tiểu luận,
bài tập lớn hoặc đồ án, khóa luận tốt nghiệp.
Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu
được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
Một tiết học được tính bằng 45 phút. Số tín chỉ của mỗi học phần phải là một số
nguyên.
1.3 Giờ tín chỉ (credit hour)
Giờ tín chỉ là một trong các giá trị sau đây:
- Một tiết học lý thuyết và hai giờ chuẩn bị cá nhân.
- Hai tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận và hai giờ chuẩn bị cá nhân.
- Ba giờ tự học, tự nghiên cứu.
1.4 Hình thức tổ chức giờ tín chỉ
Hình thức tổ chức giờ tín chỉ là cách thức tổ chức thực hiện các hoạt động
của giảng viên và sinh viên ứng với cách tổ chức chương trình môn học/ bài học,
trong đó coi trọng cả khâu tự học, năng lực nghiên cứu, thực tập, thực hành, thực tế
nhằm tích luỹ đủ khối lượng kiến thức theo yêu cầu của phương thức đào tạo theo
hệ thống tín chỉ.
Có các hình thức tổ chức giờ tín chỉ như sau:
- Dạy, học trong lớp: Thường là dạy, học giờ lý thuyết gồm nghe thuyết
trình, ghi bài giảng, làm và chữa bài tập, thảo luận và các hoạt động khác do giảng
viên yêu cầu;
- Dạy, học trong phòng thí nghiệm, hiện trường : Làm thí nghiệm, thực
hành, thực tập, điền dã (gọi chung là dạy, học thực hành, thực tập);
- Tự học ngoài lớp, ngoài phòng thí nghiệm: Tự học, tự nghiên cứu, các hoạt
động theo nhóm để hỗ trợ thảo luận, thực hành, thực tập
1.5. Các loại học phần
Có 2 loại học phần: học phần bắt buộc và học phần tự chọn.
- Học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính

Đào tạo sắp xếp. Tuy vậy, nếu đưa hệ thống này đi vào hoạt động sẽ kích thích
được tính tự giác của sinh viên trong việc chủ động quản lý thời gian cá nhân, sắp
xếp thời gian sao cho việc học tập, sinh hoạt, các hoạt động ngoại khóa, vui chơi
giải trí diễn ra phù hợp với mỗi sinh viên. Điều đó được chứng minh qua bảng hỏi
khi 23/52 (chiếm 44,2%) bạn sinh viên cho rằng đây là một trong những thuận lợi
quan trọng trong việc áp dụng hệ thống tín chỉ.
Quan trọng nhất, đào tạo tín chỉ sẽ trực tiếp loại bỏ hình thức học tập truyền
thống trước đây, tức là “cô đọc trò chép” mà thay vào đó là lấy người học làm
trung tâm khi một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết, 30 – 45 tiết
thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận. Phát huy tối đa khả năng tự học, tự tìm hiểu
trên cơ sở hướng dẫn của giảng viên. Sinh viên phải chủ động tìm hiểu kiến thức
qua các nguồn thông tin khác nhau như: giáo trình, tài liệu tham khảo, mạng
internet, sách báo…để mở rộng vốn kiến thức của mình cũng như áp dụng nó vào
cuộc sống thực tiễn.
Chính vì học tín chỉ sinh viên có thể tự đăng ký môn học của mình sao cho
phù hợp với thời gian biểu cá nhân và năng lực tiếp thu, vì vậy nên sinh viên có
điều kiện được đăng kí nhiều tín chỉ một lúc cũng như trực tiếp học 02 văn bằng
trở lên. Quảng thời gian học tập được rút ngắn, không phải thi tốt nghiệp và có thể
học song song 02 văn bằng cùng một thời điểm đã là những ưu thế vượt trội của
việc đào tạo hệ thống tín chỉ tại trường, mở rộng cơ hội việc làm sau đại học cho
sinh viên trong cơ chế thị trường khi lao động hiện nay không chỉ cần kiến thức mà
cần có cả những kĩ năng cần thiết để làm việc.
Bên cạnh đó, việc học tập theo tín chỉ với yêu cầu về dự chuẩn bị kĩ lưỡng ở
nhà, lên lớp tập trung nghe giảng đã rèn luyện cho mỗi cá nhân kỹ năng làm việc
cá nhân, kỹ năng làm việc nhóm qua các bài thảo luận, tiểu luận nhóm, kỹ năng
quản lý thời gian cá nhân điều hào giữa việc học cũng như các sinh hoạt khác. Đây
cũng là những kỹ năng cần thiết trong quá trình làm việc trên thực tế mà người sử
dụng lao động mong muốn người lao động của mình có được.
2.2 Khó khăn
Trong thời gian vừa qua, Phòng Kế toán tài vụ ban hành thông báo về việc

Phòng Đào tạo sắp xếp. Việc vẫn học theo lịch học của nhà trường sắp xếp đã phần
nào khiến sinh viên học tập như với hình thức đào tạo theo niên chế, cũng thu hẹp
kĩ năng chủ động của sinh viên trong học tập cũng như quản lý thời gian. Không
chỉ vậy trong đầu học kì II đã xảy ra sự cố khi trùng lịch học giữa môn Quốc
phòng và môn Tin học đại cương. Những bất cập này đòi hỏi được sửa đổi kịp thời
để sinh viên an tâm học tập. Không chỉ vậy, 17,31% sinh viên cho rằng lịch học
hiện nay quá nặng so với lực học của các bạn, một môn 5 tiêt/1 buổi khiến các bạn
khó khăn trong việc tiếp nhận kiến thức khi bị tác động bởi tâm lý nhàm chán.
Bên cạnh đó, nguyên tắc của đào tạo tín chỉ là không cho sinh viên thi lại mà
trực tiếp học lại vào học kì sau đã tạo áp lực đối với vấn đề điểm số. Nhiều sinh
viên đưa ra ý kiến nên để thi lại lần một nếu sinh viên đó không đủ điểm qua môn
ở lần thi đầu tiên.
Hiện nay, vấn đề khó khăn nhất mà sinh viên đang gặp phải chính là thiếu
phương pháp học (40,38%) hiệu quả. Đó là sự thiếu cân đối giữa lý thuyết, thực
hành và quản lý thời gian. Đa số sinh viên học tập tại trường nhưng vẫn chưa có
cho mình những phương pháp học đại học hiệu quả, các bạn chủ yếu học theo lối
mòn truyển thống, học một cách máy móc nhưng hiệu quả lại không cao tạo nên
tâm lý lười học.
3. Nguyên nhân
Những khó khăn mà đa số sinh viên hiện nay đang gặp phải trong việc học
theo tín chỉ dễ làm cho sinh viên bị rớt môn, kết quả học tập không đạt yêu cầu,
thậm chí là có nguy cơ bị buộc thôi học,…
Những trường hợp này không phải ít mà cũng đã xảy ra khá nhiều ở các
trường Đại học, Cao Đẳng của nước ta khi bước đầu áp dụng thí điểm đào tạo theo
tín chỉ. Số lượng sinh viên bị rớt môn, rơi vào tình trạng phải học lại là rất nhiều,
điển hình như trương Đại học Sư phạm kỹ thuật Tp.HCM, Đại học Bách khoa
Tp.HCM,…
Đối với K13, tuy mới chỉ trải qua một kỳ học theo tín chỉ nhưng nhìn
chung kết quả học tập của sinh viên chưa cao, học lực tập trung ở mức Trung bình
(36,5%), Trung bình – Khá (21%) và cao nhất là Trung bình yếu (20,7%) thậm chí

3.2 Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan do các yếu tố bên ngoài tác động
thì những chính bản thân mỗi cá nhân cũng là nguyên nhân khiên cho việc học
trong hình thức đào tạo nới gặp nhiều khó khăn hơn
Hơn nữa, sinh viên còn chưa nhận thức đầy đủ về khái niệm tín chỉ, đa số
sinh viên cho rằng, thời gian của một tín chỉ quy định chỉ bằng thời gian họ có mặt
trên lớp chứ không tính vào việc tự học ở nhà, nên thời gian tự học ở nhà của sinh
viên rất ít, chỉ giao động từ một đến hai giờ đồng hồ mỗi ngày (48, 07%) hoặc có
những sinh viên đến thời điểm hiện tại vẫn chưa biết mình đang học theo hình thức
nào, và dường như khái niệm tín chỉ còn rất mới. Do việc tìm hiểu về học hệ tín chỉ
của sinh iên chưa sâu nên dẫn đến sinh viên chưa kết hợp được với giảng viên
trong công tác dạy và họcdẫn đến tình trạng thụ động rất nhiều trong nhận thức và
hành vi học tập của mình.
Sinh viên không nắm vững chương trình toàn khóa, chương trình học của
từng năm, từng học kỳ được sắp xếp như thế nào, phải làm gì để đạt hiệu quả cao,
… ư?
Sinh viên ít quan tâm đến mục đích của từng môn học mà chỉ quan tâm đến
nội dung trong môn học đó để đối phó với thi cử.
Việc chuẩn bị bài ở nhà chưa tốt.
Thiếu tập trung trong quá trình học tập, dễ bị chi phối và khả năng không
hoàn thành bài tập đúng thời hạn cao. Việc tổ chức kế hoạch học tập thiếu khoa
học nên bị quá tải nếu đăng ký nhiều môn học.
Khi có những thắc mắc hay không hiểu vấn đề gì đó trong bài giảng thì sinh
viên thường nhờ đến sư trợ giúp của bạn bè nhiều hơn là hỏi ý kiến giáo viên.
Ngoài ra, sinh viên còn tồn tại một khuyết điểm lớn là thói quen học từ thời
phổ thông là trông chờ chủ yếu vào thầy cô, nhiều sinh viên còn chưa sử dụng tốt
khoảng thời gian không có giờ lên lớp. Thay vì lên thư viện trường, hay đến các
nhà sách để tìm hiểu và đào sâu những vấn đề được giảng viên hướng dẫn trên lớp
thì nhiều sinh viên lại sử dụng khoảng thời gian này vào các hoạt động vui chơi,
giải trí, nghỉ ngơi thư giãn hoặc đi làm thêm.

và tăng cường trao đổi bài theo nhóm. Người biết khi giảng cho người chưa biết sẽ
càng giỏi hơn, người chưa biết hỏi người biết sẽ hiểu được vấn đề.
Ngoài ra sinh viên cũng phải suy nghĩ, hoạch định kế hoạch học tập chung
cho quá trình học. Xác định rõ những kỹ năng, kiến thức cần bổ sung, cần có kỹ
năng mềm, ngoại ngữ, tin học liên quan đến chuyên ngành đang học, từ đó dự tính
sẽ rèn luyện kỹ năng nào trong thời gian nào. Nên tham gia các hoạt động thể thao,
các hoạt động phong trào do Đoàn trường, Hội Sinh viên trường, các Câu lạc bộ,
Đội nhóm tổ chức qua đó sinh viên sẽ rèn luyện cho mình các kĩ năng mềm cần
thiết.
4.2 Về đăng ký môn học
Nhiều sinh viên chỉ biết đăng kí theo bạn bè (52,92%), dẫn đến trường hợp
có học kỳ đăng kí quá nhiều môn lí thuyết, học không nổi và rớt hàng loạt, bù lại,
có những học kỳ lại đăng kí quá nhiều môn thực hành, thực tập, dẫn đến trùng lắp
khó mà học cho tốt.
Ngoài các học phần đăng ký theo thời khóa biểu học kỳ của nhà trường, sinh
viên nên đăng ký học lại hoặc học cải thiện điểm của các học phần học trong các
học kỳ trước (những học phần học lại này nếu đạt điểm học phần cao hơn điểm cũ
sẽ được tính vào điểm trung bình chung của học kỳ, còn nếu thấp hơn điểm cũ thì
SV có thể bảo lưu kết quả).
Sinh viên có quyền được lựa chọn môn học theo khả năng, hoàn cảnh cụ thể
của mình. Thậm chí, nếu ở thời điểm đó sự lựa chọn đó chưa phù hợp thì vẫn còn
sự lựa chọn khác là chưa tham gia, giúp sinh viên không bị mất đi những mảng
kiến thức và kỹ năng đã tích lũy nếu như việc học của họ bị gián đoạn. Như vậy,
sinh viên có thể chuyển đổi từ khoá học này sang khoá học khác trong cùng một hệ
thống hay khác hệ thống.
4.3 Những giải pháp dành cho nhà trường:
Việc học tín chỉ đã tạo nên một mối quan hệ gần gũi hơn giữa sinh viên và
nhà trường, điều đó là vô cùng quan trọng trong việc giúp sinh viên có thể học tốt
chương trình học của mình. Bên cạnh đó nhà trường cần phải có những giải pháp
thiết thực hơn nữa để nâng cao chất lượng đào tạo và chất lượng sinh viên.

giáo dục giúp cho việc so sánh hệ thống giáo dục đại học của trường dễ dàng hơn
thuận lợi hơn và khă năng cũng như cơ hội tìm việc làm của sinh viên dễ dàng hơn
khi ra trường.
Việc thay đổi từ niên chế sang học tín chỉ tạo nên những mặt tích cực cho
việc học của sinh viên có nhiều điểm mới trong việc học như: tạo nên tính sáng
tạo, chủ động trong việc học,biết quản lí thời gian, rút ngắn thời gian học tập hay
phân bổ thời gian phù hợp với bản thân cũng như biết khả năng lực học của mình
để có phương pháp phù hợp với mỗi người. Tạo cho sinh viên có thể học văn bằng
hai, chuyển đổi chuyên nghành mình đang học một cách dễ dàng mà không phải
học lại từ đầu khi học nhưng do có lí do hay hoàn cảnh không cho phép thì sinh
viên có thể kéo dài trình học của mình mà không bị ảnh hưởng gì khi sinh viên
muốn quay lại học.
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên có thể chủ động học theo
điều kiện và năng lực của mình. Những sinh viên giỏi có thể học theo đúng hoặc
học vượt kế hoạch học tập toàn khóa, kế hoạch học tập từng học kỳ theo gợi ý của
Nhà trường, để tốt nghiệp theo đúng thời gian chuẩn của chương trình hoặc sớm
hơn. Những sinh viên bình thường và yếu có thể kéo dài thời gian học tập trong
trường và tốt nghiệp muộn hơn. Vì thế, sinh viên phải tự lập kế hoạch học tập toàn
khóa và từng học kỳ cho phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của bản thân
dưới sự giúp đỡ của giáo viên chủ nhiệm hay cố vấn học tập. Lịch trình giảng dạy
phải thực hiện hết sức chính xác, không được đổi giờ hoặc bỏ giờ, mỗi giảng viên,
mỗi sinh viên đều có thời khóa biểu riêng, tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, giáo dục theo học chế tín chỉ cũng
mang những điểm yếu chết người từ chính những ưu điểm của nó. Song song với
việc trao quyền chủ động cho sinh viên, học chế tín chỉ cũng đòi hỏi sinh viên một
sự chủ động và tự trách nhiệm, tự ý thức lấy việc học của bản thân mình. Đây cũng
chính là điểm mà nhiều rất nhiều sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên tại
trường nói riêng. Từ ưu thế chủ động sắp xếp chương trình đào tạo cho chính bản
thân, nhiều sinh viên tỏ ra bị động và không hiểu rõ đường hướng học tập rèn
luyện trong những năm học Đại học. Cứ đến mùa đăng kí môn học, nhiều Sinh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status