NGHIÊN cứu BIỆN PHÁP CAN THIỆP CHỦ ĐỘNG, TÍCH cực đối VI BỆNH tả, lỵ, THƯƠNG hàn ở KHU vực ĐỒNG BẰNG SÔNG cửu LONG - Pdf 22


bộ y tế
viện pasteur thành phố hồ chí minh

báo cáo tổng kết đề tài

nghiên cứu biện pháp can thiệp chủ động,
tích cực đối với bệnh tả, lỵ, thơng hàn
ở khu vực đồng bằng sông cửu long pgs.ts Nguyễn thị kim tiến



PGS. TS. NGUYỄN THỊ KIM TIẾN
TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 07/2005 31. Tên đề tài
Nghiên cứu biện pháp can thiệp chủ động, tích cực đối với bệnh tả – lỵ – thương hàn
ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long
2. Mã số KC.10.11
3. Cấp quản lý: Nhà nước
4. Thuộc chương trình : KC.10
5. Thời gian thực hiện: 2001-2004

Nguyễn Xuân Mai Bác só Viện Vệ sinh Y tế công cộng TPHCM
Lê Hoàng San Bác só Viện Pasteur TPHCM
Đặng Ngọc Chánh Kỹ sư Viện Vệ sinh Y tế công cộng TPHCM
Hồ Thu Thủy Cử nhân Viện Pasteur TPHCM
10. Danh sách những người phối hợp thực hiện
Họ và tên Học vò Đơn vò công tác
Dương Ân Hận Bác só Trung Tâm Y tế dự phòng Đồng Tháp
Nguyễn Thò Lệ Thủy Bác só Trung Tâm Y tế dự phòng Đồng Tháp
Đinh Tấn Tài Bác só Trung Tâm Y tế dự phòng Đồng Tháp
Trần Thò Tài KTV Trung Tâm Y tế dự phòng Đồng Tháp
Bùi Thò Nhanh Kỹ sư Trung Tâm Y tế dự phòng Đồng Tháp
Nguyễn Văn Chuyển Bác só Trung tâm Y tế huyện Lấp Vò
Huỳnh Tấn Dũng Y só Trung tâm Y tế huyện Lấp Vò
Nguyễn Trường Tam Y só Trạm Y tế xã Bình Thạnh Trung
Lê Văn Xanh Bác só Trung Tâm Y tế dự phòng Kiên Giang
Nguyễn Mạnh Cường Bác só Trung Tâm Y tế dự phòng Kiên Giang
Đào Thò Là Cử nhân Trung Tâm Y tế dự phòng Kiên Giang
Trònh Ngọc Cư Bác só Trung Tâm Y tế dự phòng Kiên Giang
Nguyễn Văn Thế Bác só Trung Tâm Y tế Tân Hiệp
Phạm Quang Viễn Y só Trung Tâm Y tế Tân Hiệp
Trương Khánh Thuận Bác só Trạm Y tế xã Thạnh Đông B
Nguyễn Thò Như Mai Bác só Trung Tâm Y tế dự phòng Tiền Giang
Nguyễn Thò Vui Bác só Trung Tâm Y tế dự phòng Tiền Giang
Dương Thúy Hồng Cử nhân Trung Tâm Y tế dự phòng Tiền Giang
Trương Thò Út Lan Bác só Trung Tâm Y tế dự phòng Tiền Giang
Mai Thanh Trung Bác só Trung tâm Y tế Lấp Vò
Trần Thò Vân Y só Trạm Y tế xã Hưng Thạnh 5

tại hai xã nghiên cứu và chứng của huyện Lấp Vò 61
Bảng 12. Tình hình mắc bệnh các bệnh nhiễm trùng đường ruột 5 năm (1996-2000)
tại hai xã nghiên cứu và chứng của huyện Tân Phước 61
Bảng 13. Tình hình mắc bệnh các bệnh nhiễm trùng đường ruột 5 năm (1996-2000)
tại hai xã nghiên cứu và chứng của huyện Tân Hiệp 62
Bảng 14. Thời gian trung bình từ lúc nhận bồn cầu đến lúc được lắp đặt 66
Bảng 15. Tình hình sử dụng cầu tiêu của các hộ gia đình 67
Bảng 16. Kết quả điều tra về ưu điểm và điểm bất lợi của bồn cầu composite 67
Bảng 17. Chi phí trung bình cho lắp đặt bồn cầu và xây nhà cầu (n=33 hộ) 68
Bảng 18. Các mô hình cấp nước sạch cho các vùng đòa bàn khác nhau 70
Bảng 19. Tỉ lệ hộ dân vào cây nước sau một năm can thiệp 72
Bảng 20. Xử lý nước sông bằng Chloramine tại xã nghiên cứu trước và sau NC 74
Bảng 21. Tình hình sử dụng bình lọc nước 75
Bảng 22. Ưu – Khuyết điểm của bình lọc nước (ý kiến người dân) 76

Bảng 23. Số lượng thành viên tham gia ban chỉ đạo và đội ngũ cộng tác viên 78
Bảng 24. Kết quả giám sát bệnh nhân thương hàn tại các xã nghiên cứu 79

7
Bảng 25. Kết quả điều trò và theo dõi các ca thương hàn cấy máu dương tính tại
bệnh viện và cộng đồng của các xã nghiên cứu, năm 2002-2004 80
Bảng 26. Kết quả theo dõi tình trạng mang trùng của người nhà và hàng xóm của
bệnh nhân cấy máu (+) 80
Bảng 27. Kết quả hoạt động của mạng lưới cộng tác viên 84
Bảng 28. Nhân sự tham gia vào đợt uống vắc xin tả của ba xã 86
Bảng 29. Tỉ lệ uống vắc xin tả đủ liều của các xã 86
Bảng 30. Sự thay đổi nguồn nước sử dụng trong ăn uống tại các cặp xã nghiên cứu
– chứng trước và sau nghiên cứu 87
Bảng 31. Sự thay đổi nguồn nước dùng rửa rau và chế biến thực phẩm tại các cặp
xã nghiên cứu – chứng trước và sau nghiên cứu 90

Hình 7. Bản đồ các tỉnh đại diện cho từng vùng sinh thái được chọn nghiên cứu 31
Hình 8. Bản đồ các xã nghiên cứu và chứng của huyện Lấp Vò 32
Hình 9. Bản đồ các xã nghiên cứu và chứng của huyện Tân Phước 34
Hình 10. Bản đồ các xã nghiên cứu và chứng của huyện Tân Hiệp 35
Hình 11. Sơ đồ đường truyền nhiễm bệnh nhiễm trùng đường ruột và các biện pháp
can thiệp chính 38
Hình 12. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu 40
Hình 13. Diễn tiến theo tháng của lượng mưa và nhiệt độ trung bình 1996-2000 của
khu vực đồng bằng sông Cửu Long 63
Hình 14. Cộng tác viên vãng gia tuyên truyền cho chủ hộ gia đình 83 9
MỞ ĐẦU
1. Tình hình ngoài nước
Trong số các bệnh truyền nhiễm trên thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát
triển, nổi bật nhất vẫn là nhóm bệnh lây truyền qua đường nước. Trong vòng 5
năm trở lại đây, các bệnh tả, thương hàn thường xuyên gây thành dòch với số ca
mắc tăng dần theo năm trên khắp các châu lục.
Tả thường gây thành đại dòch và là một vấn đề y tế cộng đồng khẩn cấp [ 1].
Bệnh tả đã lan tràn rộng khắp từ năm 1961, và ngày nay tác động đến ít nhất 98
nước. Mỗi năm, dòch tả đã gây ra 120.000 ca tử vong qua các trận dòch lớn. Trong 5
năm qua, các vụ dòch tả liên tục xảy ra ở các nước châu Phi và châu Á như Ấn độ,
Nepal, Apganixtan, Bruney, Phillipin… Và đặc biệt ở Campuchia quốc gia có đường
biên giới với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu long của nước ta, trung bình hàng năm
có khoảng 1.500 trường hợp tả và hơn 100 ca chết [ 37].
Đối với bệnh thương hàn, hàng năm, trên thế giới có khoảng 16 triệu ca mắc
với khoảng 600.000 ca tử vong, trong đó trên 80% số ca là thuộc các nước châu Á
[ 6][ 35]. Vấn đề nan giải trong khống chế bệnh thương hàn hiện nay là tình trạng
kháng thuốc ngày một gia tăng, khiến việc điều trò triệt để rất khó khăn.

nay vẫn là gánh nặng trầm trọng cho đất nước. Trong tổng số các loại căn nguyên
gây tử vong, số tử vong do các bệnh nhiễm trùng vẫn cao hơn do các bệnh tim
mạch, ung thư và chỉ đứng sau tai nạn [ 11].
Khu vực Nam Bộ, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh,
là vựa lúa của cả nước với sản lượng lương thực chiếm 40% cả nước, có điều kiện
thời tiết nắng quanh năm, hệ thống sông rạch chằng chòt, hàng năm phải sống với
lũ, nguồn nước sử dụng trong sinh hoạt chủ yếu là nước sông (75% hộ gia đình)
[ 3][ 4]. Chủ yếu là dùng cầu tiêu ao cá và cầu tiêu trên sông (90%) [ 3][ 4], tỉ lệ cầu
tiêu hợp vệ sinh tại khu vực này là thấp nhất nước: 0% [ 2]. Tỉ lệ hộ tiếp cận với
nước an toàn chỉ đạt 56% [ 2]. Trong khi đó, hiểu biết của người dân còn rất thấp
về việc nhận biết đúng cầu tiêu hợp vệ sinh (2,1%) và nguồn nước sạch (1,2%)
[ 2][ 5][ 8], thấp nhất so với các vùng khác trong cả nước. Do thói quen, tập tục sinh
hoạt như vậy, bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là các bệnh lây qua đường nước, càng
trở nên trầm trọng hơn so với khu vực khác trong cả nước.
Ở khu vực phía nam, số ca mắc bệnh lây truyền qua đường nước chiếm 60%
tổng số 24 bệnh truyền nhiễm phải báo cáo theo quy đònh của Bộ y tế với tiêu
chảy, lỵ, thương hàn là những bệnh trong số 5 bệnh có số mắc cao nhất [ 31].

11
So với các khu vực trong nước, bệnh tả ở khu vực phía nam chỉ đứng sau
miền Trung. Dòch tả đã xảy ra ở Cà Mau (1995), An Giang (1998, 1999), Kiên
Giang, Đồng Tháp, Bến Tre (2001, 2002) [ 31].
Số ca mắc thương hàn 1995-1998 của khu vực phía nam là cao nhất nước.
Dòch thương hàn xảy ra ở Kiên Giang (1993), ở thành phố Hồ Chí Minh (1995), và
xảy ra tản phát hàng năm ở Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang [ 18][ 31].
Trong khi đó, lỵ vẫn là bệnh lưu hành ở tất cả các đòa phương đồng bằng
sông Cửu long do điều kiện vệ sinh [ 31].
Các bệnh dòch thường gây ra gánh nặng về kinh tế, làm hoang mang xã hội.
Hơn nữa, các bệnh nhiễm trùng nói chung, bệnh lây truyền qua đường nước nói
riêng (tiêu chảy, tả, thương hàn, lỵ) còn để lại hậu quả là tình trạng suy dinh

từ đó xác đònh những đặc thù của khu vực Đồng bằng sông Cửu long và đưa
ra biện pháp can thiệp phù hợp khả thi.
2. Nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp can thiệp chủ động, tích cực và khả
thi cho đồng bằng sông Cửu long nhằm khống chế dòch, giảm tỉ lệ mắc chết
các bệnh tả, lỵ, thương hàn, bao gồm:
i. Ứng dụng các mô hình can thiệp đường truyền nhiễm (phân, nước,
rác) bằng cách ứng dụng các mô hình cầu tiêu, cung cấp nước sạch
và xử lý rác hợp vệ sinh.
ii. Ứng dụng biện pháp can thiệp trên nguồn truyền nhiễm để điều trò
triệt để nguồn lây.
iii. Ứng dụng biện pháp bảo vệ khối cảm thụ bằng vắc xin tả.
iv. Biện pháp giáo dục truyền thông trên cộng đồng.
v. Biện pháp tổ chức và xã hội hoá.
3. Đánh giá hiệu quả và tính khả thi của các biện pháp kể trên. 13
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1. Đặc điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long
1.1. Giới thiệu chung
Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm 13 tỉnh thuộc miền Tây
của khu vực phía Nam nước ta: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vónh Long, Trà
Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang,
Kiên Giang. ĐBSCL có vò trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
vùng ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung. Đòa bàn ĐBSCL là vùng trọng điểm
cây lương thực và thủy hải sản lớn nhất nước ta. ĐBSCL là vựa lúa của cả nước
với sản lượng lương thực chiếm 40% cả nước (trong đó gạo chiếm 50%), đưa nước
ta thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới.
Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 40.000 km
2

nơi chỉ là 0% [ 2]. Tỉ lệ hộ gia đình sử dụng cầu tiêu không hợp vệ sinh lên đến gần
90%, bao gồm cầu tiêu ao cá (34,7%), cầu tiêu trên sông (6,3%), cầu tiêu đi nhờ
(46,7%). Trong khi đó, hiểu biết của người dân còn rất thấp về việc nhận biết đúng
cầu tiêu hợp vệ sinh (2%). Chỉ có 4% hộ sử dụng cầu tiêu tự hoại.
Sử dụng cầu tiêu ao cá, cầu tiêu trên sông là thói quen lâu đời của người
dân vùng ĐBSCL. Không những thế, cầu tiêu ao cá còn đem lại nguồn lợi kinh tế
cho hộ dân, do đó, mỗi người dân vùng ĐBSCL còn rất gắn bó với loại cầu tiêu ao
cá này. Các loại cầu tiêu ao cá đều có đường thông ra sông rạch, dễ dàng gây
nhiễm bẩn nguồn nước bề mặt.
Trong các mùa ngập lụt, cầu tiêu ao cá mất khả năng sử dụng, các loại cầu
tiêu tự hoại, dội thấm đều chìm trong nước lũ, người dân chỉ có thể thải trực tiếp
vào nước sông, kênh, rạch, càng gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước bề mặt.
Thiên nhiên ưu đãi cho vùng ĐBSCL một lượng nước ngọt bề mặt khổng lồ.
Chỉ trừ những vùng nhiễm phèn, nhiễm mặn, ĐBSCL nói chung đều có nước ngọt
quanh năm. Người dân có thói quen sử dụng nước sông như một nguồn nước sinh
hoạt, ăn uống chính. Theo báo cáo của các tỉnh [ 3], năm 1995 có 70% người dân sử
dụng nước bề mặt, đến năm 2000, điều tra của đề tài KHCN.11.02 [ 2] cho thấy tỉ
lệ này tăng lên 75%. Đặc biệt khi nước ngọt bề mặt ngày càng được mở rộng diện
đi vào các xã vùng nhiễm mặn, nhiễm phèn theo chủ trương ngọt hóa, tỉ lệ sử dụng
nước bề mặt ngày càng gia tăng.
Với thực trạng sử dụng cầu tiêu không hợp vệ sinh, cộng thêm tình trạng lũ
lụt hàng năm ở vùng ĐBSCL, nước ngọt bề mặt tại đây bò ô nhiễm nặng nề, nhiễm

15
Coli phân, nồng độ chất hữu cơ cao, độ pH giảm. Người dân lại chỉ có thói quen
lóng phèn làm trong nước, không có ý thức diệt khuẩn. Trong khi đó, đây lại là
nguồn nước chủ yếu duy nhất, đặc biệt trong mùa lũ.
Bên cạnh nguồn nước bề mặt, còn có một nguồn nước dồi dào khác từ mạch
nước ngầm sâu. Ở vùng ĐBSCL, đã hình thành nhiều mạng lưới khoan giếng lấy
nước ngầm sâu và phân phối cho các hộ dân sử dụng. Tuy nhiên, hệ thống phân

2. Nguyên lý phòng chống dòch bệnh đường ruột
Hình 1. Sơ đồ dây chuyền lây truyền bệnh nhiễm trùng đường ruột
Ở khu vực phía nam, số ca mắc bệnh nhiễm trùng đường ruột chiếm 60%
tổng số 24 bệnh truyền nhiễm phải báo cáo theo quy đònh của Bộ y tế với tiêu
chảy, lỵ, thương hàn là những bệnh trong số 5 bệnh có số mắc cao nhất [ 31].
Dây chuyền truyền bệnh nhiễm trùng đường ruột nói riêng và bệnh truyền
nhiễm khác đều bao gồm 3 yếu tố nguồn truyền nhiễm, đường truyền nhiễm và
khối cảm thụ [ 1][ 20].
Bệnh nhiễm trùng đường ruột truyền trực tiếp từ người này qua người khác
thông qua đường ăn uống. Do vậy, nguồn truyền nhiễm chủ yếu là bệnh nhân và
người mang trùng (nhiễm bệnh nhưng không có biểu hiện lâm sàng). Vi khuẩn gây
bệnh từ người bệnh thải qua phân ra ngoài môi trường, làm ô nhiễm nguồn nước và
thực phẩm, từ đó lây qua người lành (Hình 1).
Theo lý thuyết, để khống chế bệnh truyền nhiễm, chỉ cần cắt đứt bất kỳ yếu
tố nào trong dây chuyền truyền bệnh, trong đó, quan trọng nhất là yếu tố đường
truyền nhiễm.
Để giải quyết các vấn đề đường truyền nhiễm (phân, nước, rác, thực phẩm),
cộng đồng cần sử dụng nước sạch, cầu tiêu hợp vệ sinh, xử lý rác hợp vệ sinh và
an toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên, việc giải quyết đường truyền nhiễm còn
NGUỒN LÂY
Người bệnh
Người khỏi mang trùng
Người lành mang trùng
ĐƯỜNG LÂY
Phân
,
nước
,
thưc
p

3. Những nghiên cứu về biện pháp can thiệp đường truyền nhiễm
Đường truyền nhiễm là một mắt xích cơ bản và quan trọng, cần ưu tiên tác
động trong phòng chống bệnh nhiễm trùng đường ruột. Trong thời gian qua, các
ngành các cấp đã triển khai nhiều hoạt động, chương trình nhằm giải quyết các
vấn đề phân, nước, rác, thực phẩm như chỉ thò 200/TTg về xoá bỏ cầu tiêu trên
sông, cầu tiêu ao cá, chương trình quốc gia an toàn vệ sinh thực phẩm, chương trình
cung cấp nước sạch nông thôn Ngành y tế cũng thực hiện nhiều nghiên cứu tìm
tòi các biện pháp can thiệp đường truyền nhiễm bệnh đường ruột. Tuy nhiên các
nghiên cứu này thường dừng ở mức tìm ra mô hình, nhưng chưa ứng dụng thực sự
vào cộng đồng rộng lớn.
3.1. Các nghiên cứu về mô hình cầu tiêu hợp vệ sinh
Có nhiều loại cầu tiêu hợp vệ sinh được khuyến cáo sử dụng như cầu tiêu
đào, cầu tiêu tự hoại, cầu tiêu dội thấm, cầu tiêu hai ngăn. Xét về các đặc tính hợp
vệ sinh, tính tiện lợi và giá thành thì cầu tiêu dội thấm và cầu tiêu hai ngăn được
xếp hàng đầu ưu tiên lựa chọn sử dụng, tiếp đến là cầu tiêu tự hoại, cầu tiêu đào
(Bảng 1). 18
Bảng 1. Chỉ tiêu chọn lựa các loại cầu tiêu
Chỉ tiêu Tự hoại Dội thấm 2 ngăn Đào
Giá thành 1 2 3 4
Đất đai hạn chế 4 4 4 1
Sản xuất nông nghiệp 1 1 4 1
Nước 1 2 4 4
Hệ thống cống rãnh 1 4 4 1
Mùi hôi 4 4 2 1
Dùng nơi công cộng 4 4 2 1
Dùng trong nhà 4 4 2 1
Tổng điểm 24 25 25 14

nghiên cứu bao gồm ao nước có các loại thuỷ sinh hoặc hầm nước lắng giúp hoai
phân trước khi đổ ra tiêu ao cá. Tuy nhiên, những loại bể lắng này không phù hợp
với mùa lũ, khi nước dâng cao. Mặt khác, để thực hiện các bể lắng, phải đào hố,
xây thành bể lắng. Do vậy, UNICEF đã đặt hàng Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam nghiên cứu sản xuất một loại bồn cầu composite, thỏa mãn các điều
kiện: kín, không gây ô nhiễm nguồn nước, sử dụng được trong mùa mưa lũ và nước
thải ra có thể dùng nuôi cá được. Viện Vệ sinh Y tế công cộng đã đánh giá bồn
cầu composite này hợp vệ sinh, đạt tiêu chuẩn nước thải loại B không gây ô nhiễm
cho môi trường [ 22].
Xét theo nguyên tắc cầu tiêu hợp vệ sinh, bồn cầu composite đã đạt hơn ba
tiêu chuẩn, còn những đặc tính về tính chấp nhận của cộng đồng như giá thành,
tính dễ sử dụng, dễ bảo quản thì cần có những nghiên cứu khảo chứng trên thực
đòa. Do vậy, đề tài này triển khai nhằm trả lời cho những vấn đề trên, đồng thời
khẳng đònh khả năng nhân rộng việc sử dụng bồn cầu composite ở ĐBSCL.
Đây là một dạng cầu tiêu dội nước cho gia đình, với hầm cầu được thiết kế
để gắn với một ao cá đã có sẵn, sao cho phần phân hoại rồi sẽ tự động chảy ra ao
do người đi cầu dội nước, ao cá đóng vai trò như hồ ổn đònh và tại đó phân sẽ tiếp
tục tham gia vào các quá trình vật lý và vi sinh khác cũng như có thể là thức ăn an
toàn cho cá. Để lắp đặt bồn cầu, chỉ cần đào hố và chôn bồn cầu xuống , mà không
cần xây thành, hay vách hố; và bồn cầu này có thể di dời sang nơi khác được. Một
số chi tiết quan trọng của bồn cầu composite bao gồm (Hình 2): 20Hình 2. Thiết kế cầu tiêu dội nước sử dụng nước thải nuôi cá
Hình 3. Bồn cầu composite khi chưa lắp đặt
0.35
0.85 m


Phân viện khoa học vật liệu tại TP.HCM
– Bộ phận tách phân ra khỏi nước ở phần nối giữa bệ ngồi và hầm cầu, chia nước
dội thành hai phần: phần nhỏ theo phân xuống hầm cầu, phần lớn hơn chảy
theo ống ra ngay ao. Dòng nước dội này sẽ tạo một lực đẩy phân đã hoại ra
ngoài ao.
– Đầu ống nước thải thiết kế như van, không để nước trong ao tràn ngược vào
bồn, bảo đảm có thể sử dụng bồn thêm 15-20 ngày trong trường hợp lũ lụt.
– Vật liệu dùng làm hầm cầu là composite, có thể chòu đựng được trong môi
trường a xít với các chất hữu cơ…
– Kết quả phân tích nước thải ra từ bồn cầu do Viện Vệ sinh Y tế Công cộng
TPHCM đánh giá cho thấy:
o Tính chất lý hoá đạt tiêu chuẩn nước thải loại B thích hợp nuôi trồng
thuỷ sản và không gây ô nhiễm môi trường (theo TCVN 5942 –
1995).
o Nồng độ vi sinh trong nước thải ổn đònh suốt thời gian khảo sát, số
colifom giảm mạnh đạt tiêu chuẩn của Bộ Y Tế về mặt vi sinh.
o Không tìm thấy trứng ký sinh trùng đường ruột trong nước thải hoặc
trứng đã chết do quá trình phân huỷ sinh học trong các ngăn ủ đã tiêu
diệt hết ký sinh trùng gây bệnh có trong phân.

22
3.2. Những nghiên cứu về mô hình cung cấp nước sạch
Người dân ở vùng ĐBSCL sử dụng các loại nguồn nước sau: nước bề mặt
(nước sông, kênh rạch, ao), nước mưa, nước ngầm (giếng khoan nông, giếng khoan
tầng sâu). Trong đó, nguồn nước sông chiếm tỉ lệ cao 75% [2], kế là nước mưa.
Tuy nước ngọt bề mặt được sử dụng nhiều, nhưng đây lại nguồn nước bò ô
nhiễm nặng nề, nhiễm Coli phân, nồng độ chất hữu cơ cao, độ pH giảm. Người dân
lại chỉ có thói quen lóng phèn làm trong nước, không có ý thức diệt khuẩn. Trong
khi đó, đây lại là nguồn nước chủ yếu duy nhất, đặc biệt trong mùa lũ.

Chloramine đối với nước sông cần được đẩy mạnh tại những vùng này.
Ngoài ra, trường học cũng cần có hệ thống cung cấp nước sạch, vì đây là nơi
tập trung đông học sinh trong thời gian dài 4 giờ đồng hồ. Trẻ em học sinh là đối
tượng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng đường ruột cao. Tại trường học, nhà trường
không có khả năng cung cấp nước sạch, đun sôi nước để toàn thể học sinh uống.
Các em sẽ uống nước mưa, nước sông chưa xử lý. Việc tìm ra mô hình cấp nước
sạch cho học sinh là một vấn đề quan trọng.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, đề tài đưa vào nghiên cứu ba mô hình
cung cấp nước sạch tùy theo từng vùng đòa hình và dân cư, gồm:
– Mô hình vay vốn mở rộng đường ống nước giếng tầng sâu đến từng hộ dân.
– Mô hình sử dụng Chloramine xử lý nước đối với hộ dân sống rải rác vùng xa.
– Mô hình sử dụng bình lọc nước cung cấp nước uống cho học sinh.
3.2.1. Mô hình vay vốn mở rộng đường ống nước của giếng khoan tầng sâu đến
từng hộ gia đình
Mô hình cung cấp nước sạch dựa vào cộng đồng đã được chính tác giả và
cộng sự thực hiện tại một xã vùng nông thôn huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang từ
2000-2002, nhằm gia tăng việc sử dụng nước sạch cho cộng đồng [ 24]. Qua khảo
sát thực trạng, nghiên cứu này đã nhận thấy rằng xã hội hoá việc cung cấp nước
sạch đang hình thành phát triển rải rác tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với
những đặc điểm sau đây:
– Khai thác nước sạch từ nguồn nước ngầm tầng sâu (khoảng 300m)
– Doanh nghiệp tư nhân tự bỏ vốn đầu tư xây dựng đào giếng, xây bồn trữ nước
và lắp đặt đường ống nước kinh doanh, thường được gọi là cây nước. Các cây
nước này được trang bò hệ thống bơm nước tự động lên các bồn chứa lớn đặt
trên cao, đủ công suất để phân phối nước cho khoảng > 500hộ dân quanh vùng.
– Chỉ cấp nước được cho các hộ dân sống tập trung theo cụm đông dân cư như
dọc theo trục lộ và khu vực chợ. Các cụm dân cư này gồm khoảng 300-500 hộ

24
– Thực tế chỉ khoảng 10% hộ dân quanh vùng có đường ống nước đi qua có đủ

dụng đại trà trong các mùa ngập nước, mùa lũ, hoặc vào mùa dòch tả. Loại chlor sử

25
dụng thường là Chloramine B viên nén (25mg/viên) đã được thương mại hoá.
Chlor có tác dụng diệt được nhiều loại vi khuẩn gây bệnh trong nước, tuy nhiên,
nước khử chlor có mùi vò khó chòu nếu không biết cách sử dụng đúng. Truyền
thông giáo dục sức khoẻ sẽ giúp tăng được tính chấp nhận của người dân.
3.2.3. Mô hình sử dụng bình lọc nước cung cấp nước uống
Một biện pháp tiệt trùng khác là lọc nước. Trước đây, đã có nhiều nghiên
cứu tìm ra các mô hình lắng lọc nước qua các tầng đất cát. Các mô hình tuy hiệu
quả, nhưng phức tạp và khó thuyết phục các hộ dân nhỏ thực hiện. Hiện nay, đã có
nhiều doanh nghiệp sản xuất các loại bình lọc nước, sử dụng các cột lọc bằng gốm
cũng có tác dụng lọc được vi khuẩn gây bệnh trong nước. UNICEF đã thực hiện
trong 3 năm 2000 -2003 một mô hình giải quyết nước sạch cho nông thôn vùng lũ
bằng cách cung cấp các bình lọc nước loại này tại 11 xã thuộc tỉnh An Giang và
Đồng Tháp. Đây là loại bình lọc do công ty Hồng Phúc sản xuất (Hình 5), đã được
kiểm đònh chất lượng và cấp phép sử dụng. Bình có dung tích 20 lít với 3 cột lọc
nước bằng sứ có khả năng loại bỏ tạp chất, phèn sắt và các vi sinh như E.coli,
coliform. Nước sau lọc đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép uống không cần đun sôi.

Hình 5. Sơ đồ bình lọc nước nhãn hiệu Hồng Phúc
Viện Pasteur TPHCM là đơn vò tham gia đánh giá tính hiệu quả, khả năng
chấp nhận và duy trì của người dân [ 27]. Kết quả đánh giá cho thấy, sau 3 năm
thực hiện tỉ lệ còn sử dụng bình lọc là 69%. Chất lượng nước sau lọc có 68% đạt

Trích đoạn Thụứi gian nghiẽn cửựu: 2001 – 2004 Noọi dung nghiẽn cửựu Keỏt quaỷ ủaựnh giaự hieọu quaỷ caực bieọn phaựp can thieọp toồng hụùp
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status