Rèn kỹ năng sử dụng sách giáo khoa lịch sử cho học sinh trung học phổ thông (vận dụng qua quá trình lịch sử thế giới cận đại lớp 10 chương trình chuẩn - Pdf 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC


DOÃN THỊ HỒNG NHUNG
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA
LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(VẬN DỤNG QUA KHÓA TRÌNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI
CẬN ĐẠI LỚP 10 CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
Mã số: 60 14 10 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thị Côi HÀ NỘI - 2012

2


càng không thể tìm đâu là điểm tựa cho mình. Dù trong quá trình hội nhập,
khoa học kỹ thuật dần trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp, song đất
nước muốn "hóa rồng" phải có điểm tựa văn hóa và lịch sử. Chính lịch sử và
văn hóa là kết cấu vững chắc, trở thành nội lực cho sự tồn tại và phát triển của
một dân tộc. Phải thấy, phải biết, phải thấu hiểu được những giá trị của lịch sử
thì dân tộc đó mới xây dựng được một chiến lược phát triển trong tương lai.
Như vậy lịch sử có tác dụng to lớn trong việc hun đúc cho thế hệ trẻ - những
chủ nhân tương lai của đất nước lòng tự tôn, tự hào dân tộc từ đó có thêm tinh
thần trách nhiệm trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.
Để góp phần thực hiện mục tiêu chung của đất nước, bộ môn Lịch sử ở
trường phổ thông đã xác định mục tiêu cơ bản của mình là “cung cấp kiến
thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã
hội loài người, rèn luyện kĩ năng tư duy và thực hành qua học tập bộ môn.
Trên cơ sở đó giáo dục thái độ, tình cảm đúng với các sự kiện, nhân vật lịch

4
sử, bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lí tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội” [23, tr. 69].
2. Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, có thật và tồn tại khách quan
trong quá khứ. Vì vậy không thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng để
nhận thức lịch sử. Trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông, sách giáo khoa
có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó được xem là tài liệu học tập cơ bản giúp
HS nhận thức lịch sử. Sách giáo khoa Lịch sử cũng được coi là một công trình
nghiên cứu khoa học “Sách giáo khoa Lịch sử cũng như các Sách giáo khoa
của các môn học khác ở trường phổ thông là sự kết hợp của khoa học giáo
dục và khoa học cơ bản (sử học). Nó phải cung cấp cho HS những kiến thức
khoa học đạt được trình độ hiện đại nhất của việc nghiên cứu,… thể hiện
được mục tiêu, tính chất giáo dục” [11,tr. 25]. Do đó Chương trình giáo dục
phổ thông cấp THPT đã quy định phương pháp dạy học bộ môn phải “Tăng
cường năng lực làm việc với sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, rèn luyện

dục tiến hành từ những năm 20 của thế kỉ XX. Đi đầu là những nghiên cứu
của các nhà giáo dục người Nga, Anh, Mĩ… Thông qua nguồn tài liệu dịch
thuật, chúng tôi đã tiếp cận được các công trình sau:
Có thể kể đến đầu tiên là M.N Xcatkin (1980) [29, tr. 28] cho rằng:
“Công việc với sách giáo khoa có thể là phương pháp giải thích minh họa
khi mà học sinh đọc sách giáo khoa, là phương tiện tái hiện khi mà học
sinh luyện tập theo một đoạn nào đó, là phương pháp nghiên cứu nếu học
sinh giải quyết theo sách giáo khoa những nhiệm vụ không phải là mẫu
quen biết đối với chúng”.
Hoặc T.A Ilina trong giáo trình “Giáo dục học” đã đề cập và đánh giá
phương pháp làm việc với sách giáo khoa. Tác giả cho rằng đây là phương
pháp dạy học có nhiều ưu điểm: “Vấn đề mở rộng phạm vi học tập của học
sinh theo sách và tài liệu tham khảo xem như là phương tiện để học sinh độc

6
lập thu nhận các kiến thức trong nhà trường và để chuẩn bị cho họ tự bồi
dưỡng và học tập ở các trường đại học và chuyên nghiệp là vấn đề rất bức
thiết” [36,tr. 80]. Tác giả đã khái quát quá trình làm việc của học sinh với
sách giáo khoa thành quy tắc: xem qua những gì ghi chép, đồng thời nhớ lại
những điều giảng giải của giáo viên, nếu tài liệu không giảng trong lớp thì
đọc tất cả tài liệu cần đọc trong sách giáo khoa nhằm mục đích nắm toàn bộ
nội dung, để phân tích những chỗ khó Sau khi nắm vững tài liệu lý thuyết
học sinh bắt tay vào làm bài tập viết. [36, tr. 83].
Đặc biệt phải kể đến cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế
nào” của I.F.Kharlamov đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể và đề xuất “nhiều
phương án trong công tác tự lực với sách giáo khoa”. Trong đó ông đã lí giải
những vấn đề quan trọng như: giáo viên ít chú ý dạy cho học sinh kĩ xảo làm
việc với sách giáo khoa thì sẽ dẫn tới hiện tượng học sinh học vẹt ít chuẩn bị
bài ở nhà, không biết nêu những vấn đề chủ yếu của bài học trong sách giáo
khoa [34, tr. 39-40]; hay tại sao đọc sách giáo khoa sau khi nghe giáo viên

của học sinh. Đặc biệt để một giờ học có hiệu quả và phát huy được suy nghĩ
độc lập của học sinh, tác giả đã quan tâm đến vị trí, vai trò của sách giáo khoa và
sử dụng sách giáo khoa như thế nào cho có hiệu quả trong giờ học lịch sử. Trên
cơ sở đó ông đưa ra sơ đồ xác định vị trí của sách giáo khoa với tài liệu khác,
giữa vị trí của bài giảng và bài viết của sách giáo khoa để có thể khai thác tốt nội
dung sách giáo khoa trong một giờ học của giáo viên và học sinh.
Tóm lại, nhiều tác giả đã khẳng định tầm quan trọng của sách giáo
khoa và tầm quan trọng của việc sử dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử
sao cho có hiệu quả trong việc tiếp thu kiến thức mới hoặc ôn tập kiến thức
cũ.
2.2 Tài liệu trong nước viết về sách giáo khoa và phương pháp sử dụng
sách giáo khoa.

8
Trong cuốn “Giáo dục học tập I” của Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt đã
trình bày ý nghĩa của việc sử dụng sách giáo khoa: “Nếu sử dụng đúng
phương pháp, sách sẽ có tác dụng lớn như: mở rộng, đào sâu vốn hiểu biết
của mình một cách có hệ thống và sinh động, rèn luyện kĩ năng thói quen sử
dụng sách giáo khoa, bồi dưỡng vốn ngữ pháp, kinh nghiệm viết văn, óc nhận
xét, phê phán bồi dưỡng hứng thú học tập, tình cảm và tư tưởng”. [30, tr. 32]
Bên cạnh đó một số tác giả như Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức trong
cuốn “Hoạt động dạy học ở trường THCS” [12]; “Giáo dục học đại cương”
của tác giả Phạm Viết Vượng [39],… không chỉ đề cập đến vị trí vai trò của
sách giáo khoa mà còn đề cập các kĩ năng làm việc với sách giáo khoa như kĩ
năng đọc, kĩ năng ghi chép, kĩ năng phân tích hình vẽ, biểu đồ,…
Giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” dùng cho các trường sư
phạm xuất bản vào các năm 1966, 1976, 1992, 1998, 2002 đã đề cập đến vấn
đề sử dụng sách giáo khoa để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy
học lịch sử. Tuy nhiên trong những lần xuất bản đầu các tác giả mới đề cập
khái quát qua về vị trí của sách giáo khoa lịch sử và phương pháp sử dụng

câu hỏi, kĩ năng hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa trên lớp và ở nhà.
Bên cạnh đó, tác giả còn có những bài viết liên quan đến sách giáo
khoa được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như bài viết “Về sách giáo
khoa Lịch sử PTTH (chương trình cải cách)” của GS.TS Nguyễn Thị Côi trên
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 3/1993, tr.25.
Ngoài ra vấn đề SGK và sử dụng SGK cũng được bàn luận nhiều trong
các tạp chí như: tạp chí Giáo dục và thời đại, Tạp chí Giáo dục, Tạp chí Dạy
và học ngày nay, Nghiên cứu giáo dục,…Có thể kể đến như bài viết “Về cấu
trúc và yêu cầu biên soạn sách giáo khoa môn lịch sử THCS” của PGS.TS.
Nguyễn Hữu Chí trên tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 4/2000 tr. 8, “Rèn luyện
cho học sinh kĩ năng làm việc với tài liệu học tập” của tác giả Nguyễn Gia
Cầu trên tạp chí Giáo dục số 177/2007…

10
Đặc biệt cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học sách giáo khoa trong xã hội
hiện đại (NXB Giáo dục) năm 2004 với tập hợp hơn 20 bài viết về sách giáo
khoa với nhiều tác giả hàng đầu trong ngành. Các tác giả đều đánh giá cao
vai trò, ý nghĩa của sách giáo khoa trong dạy học ngày nay, trên cơ sở đó
đề xuất sử dụng sách giáo khoa để đổi mới phương pháp dạy học như bài
viết “Sách giáo khoa góp phần đổi mới phương pháp dạy học” của PGS.TS
Nguyễn Hữu Chí,…
Ngoài ra còn có những bài viết có liên quan đến phương pháp hình
thành kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cho các môn học khác như: bài viết
“Phương pháp hình thành kĩ năng sử dụng sách giáo khoa địa lí cho học sinh
cấp II” trên tạp chí Thông báo khoa học số 3/1994 tr. 65, “Quá trình tổ chức
các hoạt động học tập cho học sinh THPT theo hướng rèn luyện kĩ năng làm
việc với sách giáo khoa trong dạy học sinh học” của Th.S Nguyễn Hữu Duân
trên tạp chí Giáo dục số 211/2009 tr. 48-49,…
Bên cạnh đó việc nghiên cứu sách giáo khoa và phương pháp sử dụng
sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông còn được trình bày trong luận án

3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Quá trình sử dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử lớp 10 THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu về SGK mà tập trung vào nội dung
rèn luyện cho HS kĩ năng sử dụng SGK, vận dụng vào khóa trình lịch sử thế
giới cận đại lớp 10 THPT (chương trình chuẩn)
Luận văn tiến hành điều tra thực tiễn một số trường THPT tại thành
phố Hạ Long – tỉnh Quảng Ninh như: THPT Hòn Gai, THPT dân lập Văn
Lang, THPT Chuyên Hạ Long… và tiến hành thực nghiệm sư phạm tại
trường THPT Chuyên Hạ Long.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích nghiên cứu.

12
Trên cơ sở khẳng định tầm quan trọng của SGK Lịch sử, đề tài đi sâu tìm
hiểu nội dung các kĩ năng sử dụng SGK cần rèn luyện cho học sinh và đề xuất
một số biện pháp rèn luyện cho HS kĩ năng sử dụng SGK Lịch sử.
4.2. Nhiệm vụ.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
- Tìm hiểu qua các nguồn tài liệu tâm lý, giáo dục, giáo dục Lịch sử để
xác định những căn cứ khoa học giúp cho việc rèn luyện kĩ năng sử dụng
sách giáo khoa trong dạy học lịch sử thế giới cận đại lớp 10 THPT (chương
trình chuẩn).
- Điều tra, đánh giá thực trạng việc hướng dẫn học sinh sử dụng sách
giáo khoa của giáo viên và thực trạng học sinh sử dụng sách giáo khoa.
- Tìm hiểu chương trình và SGK Lịch sử lớp 10 – phần Lịch sử thế giới
Cận đại, từ đó xác định nội dung các kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cơ bản
của học sinh trong học tập lich sử.

kết quả xác thực.
- Phương pháp quan sát sư phạm: Dự giờ một số tiết dạy của giáo viên
để tìm hiểu thực trạng giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa
lịch sử hiện nay và dự giờ một số tiết dạy thực nghiệm để đánh giá tính khả
thi, đánh giá kết quả thực nghiệm.
- Thực nghiệm sư phạm: soạn một bài học cụ thể thể hiện những đề
xuất của đề tài về các biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa lịch
sử cho học sinh và tiến hành thực nghiệm sư phạm.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả
thực nghiệm.
6. Giả thuyết khoa học và đóng góp của luận văn
6.1. Giả thuyết khoa học.

14
Thực tiễn hiện nay cho thấy việc sử dụng sách giáo khoa lịch sử ở
trường THPT còn nhiều hạn chế. Vì vậy nếu sử dụng các biện pháp rèn luyện
kĩ năng sử dụng sách giáo khoa theo những yêu cầu luận văn đưa ra sẽ góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử ở trường phổ thông.
6.2 Đóng góp của luận văn
- Tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng sử dụng SGK Lịch sử cho học sinh THPT.
- Phác họa một bức tranh về thực trạng việc cần rèn luyện cho HS kĩ
năng sử dụng SGK trong dạy học LS ở trường Phổ thông.
- Đề xuất được một số biện pháp hướng dẫn rèn luyện kĩ năng sử dụng
sách giáo khoa Lịch sử cho học sinh THPT.
7 . Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần làm phong phú thêm lý luận và phương pháp dạy học bộ môn
về phương pháp sử dụng sách giáo khoa Lịch sử.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn

được con người nắm vững, chỉ cần nắm vững phương thức hành động là con
người có kĩ năng [41, tr. 78]
- N.D. Lêvitốp cho rằng kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành
động nào đó, hoặc một hành động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp
dụng những cách thức đúng đắn có tính lý thuyết về hành động mà phải biết
vận dụng vào thực tế [43, tr. 3].
- Theo K.K.Platônốp, G.G. Côluvep thì kĩ năng là năng lực của con
người thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong
những điều kiện và trong những khoảng thời gian tương ứng. Bất kì một kĩ
năng nào cũng bao hàm trong nó cả biểu tượng về khái niệm, vốn tri thức, kỹ
xảo,… Cơ sở tâm lý của kĩ năng là sự hiểu biết về mối quan hệ qua lại giữa
mục đích hoạt động, các điều kiện và phương thức thực hiện. [44, tr. 77]

16
- Kĩ năng là những khả năng vận dụng những tri thức thu nhận được
trong một lĩnh vực nào đó vào thực tiễn [15, tr. 23].
- Kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động bằng cách vận dụng
những tri thức, kinh nghiệm về hành động này để tiến hành phù hợp với
những điều kiện cho phép, vì vậy kĩ năng không chỉ là mặt kĩ thuật của hành
động mà còn biểu hiện năng lực của chủ thể [27, tr. 83]. Trên cơ sở đó các tác
giả Nguyễn Thị Mĩ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn Tính đã đưa ra khái
niệm về kĩ năng học tập: “kĩ năng học tập là sự thực hiện có kết quả các hành
động phân tích, mô hình hóa, khái quát hóa các đối tượng nhận thức… bằng
cách vân dụng những tri thức kinh nghiệm về hành động này để tiến hành phù
hợp với những điều kiện cho phép”.
- Kĩ năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức,
phương pháp,…) để giải quyết nhiệm vụ mới [21, tr. 80]
Như vậy trong tâm lý học kĩ năng được xem xét theo hai khuynh
hướng:
Khuynh hướng thứ nhất xem xét kĩ năng là góc độ kĩ thuật của hành

năng, chỉ có 2% là kỹ năng bẩm sinh tham gia vào sự thành công của
chúng ta. Vì thế Êđixơn đã nói thiên tài là 1% trí thông minh cộng với 99%
mồ hôi và nước mắt.
Trong học tập “GV phải tạo cơ hội cho HS được thụ hưởng một cách
tích cực, tự giác nội dung dạy học, giáo dục và được hình thành vững chắc
một số kĩ năng cơ bản. Một số kĩ năng cơ bản đó sẽ gắn bó chặt chẽ với họ
trong suốt cuộc đời và làm cơ sở nền tảng cho sự thành công trong sự nghiệp
của họ.” [44, tr. 15]. Điều đó có nghĩa là để HS có được các kĩ năng, GV phải
có các bước hướng dẫn cụ thể với từng kĩ năng, sau đó HS phải được thực
hành với từng kĩ năng và các kĩ năng sẽ trở nên thuần thục khi các em thường
xuyên được luyện tập, được sử dụng.

18
Các tài liệu tâm lý học và giáo dục học đã khẳng định, một kĩ năng
hành động nào đó được hình thành phải trải qua nhiều giai đoạn:
Trước hết, là sự nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều kiện
hành động. Đây là giai đoạn quan trọng, vì nếu không xác định được mục
đích sẽ không có hướng hành động và khó có thể nắm được cách thức hành
động để đạt được kết quả mong muốn. Đồng thời với việc nhận thức mục
đích, cần phải nắm vững các bước, các thao tác thực hiện hành động. Việc
lĩnh hội này có thể do con người tự học, cũng có thể do người khác hướng
dẫn. Tuy nhiên việc hình thành kiến thức ở giai đoạn này mới chỉ là tiếp nhận
lý thuyết chứ chưa hành động thực sự nên chưa thể nói là đã có kĩ năng.
Nhưng nếu không có bước này thì người học phải lần mò, khó hoàn thành
công việc có hiệu quả và mất nhiều thời gian.
Tiếp theo là giai đoạn GV làm mẫu bằng các ví dụ minh họa cụ thể qua
các tiết học, bài học, HS “quan sát mẫu” và “làm thử theo mẫu”. Công việc
này giúp các em thấy được khả năng vận dụng tri thức vào hoạt động, xem
hoạt động có những ưu và nhược điểm như thế nào cần phát huy, cần sửa
chữa và củng cố tri thức đã nắm. Ở giai đoạn này, việc làm thử ngắn hay dài

Quan niệm về sách giáo khoa nói chung.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về sách giáo khoa, nhưng tựu
chung lại có những quan niệm chính và cơ bản sau đây:
- I.F Kharlamốp quan niệm: “Sách giáo khoa và tài liệu học tập phải trở
thành một trong những nguồn chủ yếu cung cấp kiến thức và là phương tiện
quan trọng của việc tổ chức công tác tự lập của học sinh trong giờ học” [34,
tr. 36]
- Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Sách giáo khoa là sách biên soạn theo
chương trình dạy học ở các trường học” [40, tr. 813]
- Quan niệm về sách giáo khoa được pháp chế hóa trong Luật Giáo dục:
“sách giáo khoa do bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn và duyệt trên cở

20
thẩm định của Hội đồng quốc gia để sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định
trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục khác” [45, tr. 35]
- Tổ chức Unessco đã từng nhấn mạnh: “Sách giáo khoa là một trong
ba yếu tố quyết định nhất đến chất lượng của một quốc gia bên cạnh yếu tố
giáo viên và hệ thống tổ chức giáo dục, hệ thống chương trình”
- Theo PGS. TS. Nguyễn Hữu Chí – Viện Khoa học giáo dục [7] cho
rằng: “Sách giáo khoa cụ thể hóa những quy định của chương trình về mục
tiêu bộ môn, về phạm vi, số lượng và mức độ của các đơn vị kiến thức. Là tài
liệu làm việc của học sinh, sách giáo khoa thể hiện cụ thể định hướng phương
pháp dạy học của chương trình, thể hiện các dạng phong phú khác nhau của
tài liệu học tập, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ
môn học”
- Trong cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học về Sách giáo khoa trong xã hội
hiện đại đã đưa ra rất nhiều quan niệm khác nhau về sách giáo khoa như:
PGS.TS Trần Đức Tuấn [16, tr. 5] cho rằng: Sách giáo khoa là một
trong những đầu vào quan trọng bậc nhất của giáo dục, nội dung sách giáo
khoa phản ánh các tư tưởng cơ bản về văn hóa của các dân tộc và thường là

hóa chương trình môn học do Nhà nước quy định, được biên soạn theo
chương trình và quán triệt mục tiêu đào tạo đã được xác định, trong đó phải
thể hiện được mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy học. Có nhiều
nguồn thông tin về lịch sử đến với học sinh song những kiến thức lịch sử trình
bày trong sách giáo khoa là những kiến thức đảm bảo tính khoa học, tính tư
tưởng và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh từng lớp, từng cấp học.
Nội dung sách giáo khoa không hề đề cập đến phương pháp dạy học, nhưng
cấu tạo, hình thức trình bày của nó là những gợi ý quan trọng và cần thiết để
giáo viên và học sinh lựa chọn phương pháp dạy học.
Sách giáo khoa cũng là một công trình nghiên cứu khoa học, chủ yếu là
khoa học giáo dục, nó tuân theo những yêu cầu nhất định sau:

22
Về nội dung: sách giáo khoa cập nhật được trình độ hiện đại của khoa
học lịch sử và khoa học giáo dục trong nước cũng như nước ngoài. Sách giáo
khoa lịch sử hiện nay phản ánh được những nghiên cứu khoa học mới nhất
đồng thời đã được công nhận (những vấn đề còn đang tranh luận thì không
đưa vào sách giáo khoa).
Về kiến thức: sách giáo khoa cần đảm bảo tính toàn diện tức là phản
ánh đầy đủ mọi mặt sinh hoạt của xã hội loài người và dân tộc từ kinh tế,
chính trị, văn hóa tư tưởng cho đến lịch sử đấu tranh,… Những sự kiện lịch sử
thế giới và lịch sử Việt Nam được trình bày theo thứ tự lịch đại theo quan hệ
đồng đại.
Về mặt giáo dục: sách giáo khoa biên soạn theo quan điểm của sử học
Mác xít về quy luật phát triển của xã hội, về vai trò của quần chúng nhân dân
lao động… trong lịch sử.
Về mặt sư phạm: nội dung sách giáo khoa phải phù hợp với trình độ
nhận thức và đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh. Hình thức trình bày phải rõ
ràng, hấp dẫn tránh liệt kê sự kiện, niên đại, khái niệm phức tạp,…
Về cơ bản sách giáo khoa lịch sử khi được biên soạn cũng phải tuân thủ

bài học, xác định kiến thức cơ bản, xây dựng cấu trúc bài học, lựa chọn
phương pháp giảng dạy), sử dụng trong quá trình lên lớp (giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa nội dung sách giáo khoa và bài giảng). Đối với học sinh –
đối tượng chủ yếu sử dụng sách giáo khoa lại có những kĩ năng làm việc với
sách giáo khoa như: đọc sách giáo khoa để hình dung bài học mới (gồm đọc
nội dung bài viết, đọc câu hỏi, bài tập để suy nghĩ phương án giải quyết, quan
sát tranh ảnh, bản đồ, đồ thị,…), trong giờ lên lớp học sinh cần biết cách sử
dụng sách giáo khoa kết hợp với nghe giảng, ghi chép và trao đổi, sử dụng
sách giáo khoa làm tài liệu ôn tập, củng cố, hệ thống hóa kiến thức.
Hoặc PGS. Đặng Văn Đức [17] đã đưa quan niệm kĩ năng sử dụng sách
giáo khoa của mình gắn liền với các hoạt động sử dụng sách giáo khoa như:

24
tái tạo đơn giản bài khóa, chia bài khóa thành các phần, lập dàn bài đơn giản
và mở rộng, trả lời những câu hỏi ở cuối bài, phân biệt những ý chính và ý
phụ, xác lập những mối liên hệ nhân quả,….
Như vậy trên cơ sở các khái niệm cơ bản trên, chúng tôi rút ra quan
niệm: Kĩ năng làm việc với sách giáo khoa là sự thực hiện có kết quả các
hoạt động làm việc với sách giáo khoa.
1.1.2. Xuất phát điểm của vấn đề
1.1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông
Mục tiêu giáo dục nói chung, mục tiêu môn học nói riêng là “cái đích”
phải nhắm tới để đạt được những kết quả trong sự hình thành, phát triển nhân
cách học sinh, bao gồm các mặt: trí dục, đức dục, thể dục, mĩ dục,… Nó phải
được xây dựng trên cơ sở lí luận và thực tiễn, tuân thủ những nguyên tắc: đáp
ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xuất phát từ vị trí, chức năng, nhiệm
vụ của cấp học, bậc học,…
Mục tiêu bộ môn Lịch sử ở trường THPT được xây dựng trên cơ sở
mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, quan điểm đường lối của Đảng về sử
học và giáo dục. Mục tiêu môn học cũng căn cứ vào nội dung, đặc trưng của

cố những kiến thức đã tiếp thu ở THCS và bổ sung nâng cao một cách có hệ
thống, sâu sắc hơn lịch sử xã hội loài người từ thời nguyên thủy, cổ đại, trung
đại đến các thời kì cận đại và hiện đại. Qua đó học sinh hiểu rõ hơn quy luật
phát triển của xã hội loài người, những tác động ảnh hưởng của lịch sử thế
giới đến lịch sử nước ta, mối quan hệ giữa lịch sử nước ta với lịch sử các
nước láng giềng và trong khu vực.
Như vậy nhiệm vụ giáo dưỡng trong mục tiêu của môn Lịch sử ở
trường THPT là cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, bao gồm: sự
kiện lịch sử cơ bản, nhân vật lịch sử tiêu biểu, thời gian, không gian, các khái
niệm, thuật ngữ, những hiểu biết về quan điểm lí luận sơ giản, những vấn đề

Trích đoạn Vai trò và ý nghĩa của việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng sách Thực trạng sử dụng sách giáo khoa nói chung và thực trạng rèn luyện Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng SGK cho HS Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status