Công tác đào tạo nghề có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực không chỉ của Việt Nam mà của tất cả các quốc gia trên thế giới - Pdf 26

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác đào tạo nghề có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát
triển nguồn nhân lực không chỉ của Việt Nam mà của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Thực hiện tốt việc đào tạo nghề sẽ giúp cho mỗi quốc gia có được
đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ cao, tay nghề giỏi, khắc phục được
tình trạng thừa thầy, thiếu thợ; đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã
nhận thấy rõ vai trò quan trọng của đào tạo nghề, nhất là trong giai đoạn hiện
nay, giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Sự nghiệp CNH - HĐH đòi
hỏi một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tiếp cận
với khoa học hiện đại. Chiến lược giáo dục - đào tạo của Đảng và Nhà nước
được đề ra theo hướng mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng đào tạo, tạo
điều kiện thuận lợi đáp ứng thiết thực cho hoạt động dạy nghề và học nghề
của nhân dân.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII xác định: Cùng với
khoa học và công nghệ, Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đồng thời, Nghị
quyết Trung ương hai khoá VIII đã phân tích sâu sắc việc xác định những
quan điểm, định hướng, đề ra các mục tiêu và các giải pháp chiến lược nhằm
phát triển công tác đào tạo nghề trong thời kì CNH, HĐH đất nước.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 đã cụ thể hoá mục tiêu phát
triển đối với dạy nghề trong thời kì CNH, HĐH là: Đặc biệt quan tâm nâng
cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác
phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc làm
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chú trọng đào tạo công nhân
kỹ thuật, kỹ thuật viên có trình độ cao.
Luật giáo dục 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14.6.2005 trong
1
đó, quy định đào tạo nghề phải được thực hiện ở 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề,
trung cấp nghề và cao đẳng nghề; tạo sự cạnh tranh trên thị trường trong

có chất lượng, đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động trong khu vực. Điều đó nói
lên rằng, nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo đang là một trong những bức xúc và cấp thiết trong
tình hình hiện nay. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài này cũng được xem
như là một đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển sự nghiệp Giáo dục –
Đào tạo nói chung và lĩnh vực đào tạo chuyên nghiệp, dạy nghề nói riêng.
Những biện pháp quản lý hoạt động đào tạo mang tính tích cực, đổi
mới và thiết thực được xem là những biện pháp quản lý chiến lược để phát
triển sự nghiệp dạy nghề, góp phần cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng
cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và đất nước nói chung.
Với những lý do đã trình bày như trên, chúng tôi chọn và thực hiện
nghiên cứu đề tài khoa học “Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo
tại trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì – Phú Thọ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và hệ thống hoá những vấn đề khoa học về quản
lý, quản lý giáo dục và khảo sát thực trạng quản lý hoạt động đào tạo tại
trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm. Từ đó, chúng tôi đề xuất một số
biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực tại trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
3. Khách thể đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý hoạt động đào tạo tại trường Cao đẳng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo tại trường Cao đẳng Công
nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
3
4. Giả thuyết khoa học
Xuất phát từ các cơ sở lý luận cùng với nghiên cứu thực tiễn, nếu đề ra
được hệ thống của biện pháp quản lý hoạt động đào tạo một cách có cơ sở
khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường thì chất lượng đào

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung cơ bản của luận văn thể hiện 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và hoạt động đào tạo nghề ở các trường
Cao đẳng.
Chương 2: Thực trạng biện pháp quản lý hoạt động đào tạo tại trường
Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo tại trường Cao
đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ
Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Cùng với sự phát triển về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, hệ
thống giáo dục nói chung cũng như trong lĩnh vực đào tạo nghề nói riêng
luôn luôn được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm, phát triển và
hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về phát triển nguồn nhân lực.
Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa
học công nghệ , cùng với xu thế toàn cầu hoá, cũng như sự ra đời của nền
kinh tế tri thức, yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực ngày càng cao. Ở tất cả các
nước trên thế giới, bất luận là nước giàu hay nghèo, hay ở châu lục nào thì hệ
thống giáo dục nói chung, công tác đào tạo nghề nói riêng luôn có vai trò
quyết định đến việc nâng cao vị thế và trình độ phát triển của mỗi quốc gia.
Như chúng ta được biết, trong cơ cấu lao động, nguồn nhân lực qua
đào tạo nghề là lực lượng đông đảo nhất, trực tiếp tham gia sản xuất ra của
cải vật chất cho xã hội. Khi nghiên cứu về hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở
Việt nam (Năm 1997) các chuyên gia trong và ngoài nước đều khẳng định:
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã bị lãng quên trong một thời gian dài.
Đã đến lúc chúng ta nhìn nhận thực tế vai trò của đào tạo nghề với quan
niệm và cách nhìn khác. Đào tạo nghề cộng đồng đối mặt với những thách

CAO ĐẲNG
CAO ĐẲNG NGHỀ
(max: 3 năm)
TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
TRUNG CẤP
CHUYÊN
NGHIỆP
TRUNG CẤP NGHỀ
(từ 1 – 3 năm)
TRUNG HỌC
CƠ SỞ
SƠ CẤP NGHỀ
(dưới 1 năm)
TIỂU HỌC
MẪU GIÁO
NHÀ TRẺ
Cùng với các lĩnh vực quản lý khác, quản lý giáo dục nói chung và
quản lý đào tạo nghề nói riêng luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu
quan tâm, đặc biệt là trong nhận thức sâu sắc vai trò của hệ thống giáo dục
nói chung và hệ thống đào tạo Đại học, Cao đẳng nói riêng đối với sự phát
triển KT - XH của mỗi đất nước. Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã đóng
góp nhiều giá trị trong thực tiễn quản lý quá trình dạy - học. Tuy nhiên vấn
đề nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng hiện nay còn ít được quan tâm. Đặc biệt, với Trường Cao đẳng Công
nghiệp Thực phẩm là trường đang đào tạo đa dạng về trình độ chuyên môn
kỹ thuật (từ trình độ Công nhân kỹ thuật đến Cao đẳng) và phong phú ngành
nghề nhưng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu “Một số biện pháp quản lý hoạt động đào
tạo” tại trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm là đòi hỏi cấp thiết và mới

Lao động xã hội gắn liền với quản lý, quản lý là một hoạt động lao
động đặc biệt, điều khiển lao động chung khi xã hội có sự phân công lao
động. Xã hội càng phát triển, các loại hình lao động ngày càng phong phú,
đa dạng, phức tạp thì hoạt động quản lý ngày càng đóng vai trò quan trọng
và quyết định.
Như vậy, quản lý là một khái niệm rộng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực,
các nhà quản lý kinh tế thiên về quản lý nền sản xuất xã hội, các nhà quản lý
nhà nước thiên về quản lý các hoạt động xã hội theo pháp luật, còn các nhà
quản lý giáo dục thiên về quản lý mọi hoạt động giáo dục và đào tạo trong xã
hội nhằm đạt được những mục tiêu đã định. Tuỳ theo góc độ tiếp cận khác
nhau mà khái niệm quản lý được các nhà khoa học định nghĩa trong các công
trình nghiên cứu khoa học của mình, chẳng hạn:
- Tác giả Vũ Ngọc Hải đưa ra khái niệm về quản lý như sau: “Quản
lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
10
quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.” [8]
- Hai tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ cho rằng “Quản lý là một
quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình
tác động đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Những mục tiêu
này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong
muốn”. [11]
- Tác giả Nguyễn Văn Lê cho rằng: “Quản lý là một hệ thống xã hội,
là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là con người
nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra”. [16]
- Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Mỹ Lộc cho rằng “Quản lý là
qúa trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”. [2]
- Đối với tác giả Trần Quốc Thành đã đưa ra định nghĩa chung về
quản lý, có thể xem xét dưới hai góc độ:
+ Theo góc độ Chính trị xã hội thì quản lý là sự kết hợp giữa tri thức với

ngày càng vững mạnh.
Thực tế cho thấy, phần lớn kết quả của một quá trình quản lý lại tuỳ
thuộc vào sự lựa chọn và sử dụng các biện pháp quản lý, điều đó giúp cho
chủ thể quản lý có thể tạo được động cơ, động lực thúc đẩy đối tượng quản
lý thực hiện tốt các nhiệm vụ.
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu khái niệm biện pháp quản lý là những định
hướng quan điểm cho công tác quản lý ở một lĩnh vực nào đó, nó cũng là cách
thức, con đường, cách làm cụ thể nhằm đạt hiệu quả cao nhất của quá trình quản
lý nhằm tiết kiệm thời gian và vật lực của các thành phần tham gia quản lý.
- Quản lý giáo dục
Trước hết, cũng như quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là hoạt
động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình. Chỉ
12
có con người mới có khả năng khách thể hoá mục đích, nghĩa là thể hiện cái
nguyên mẫu lý tưởng của tương lai được biểu hiện trong mục đích đang ở
trạng thái tiềm ẩn sang trạng thái hiện thực. Như đã biết, mục đích giáo dục
cũng chính là mục đích của quản lý (tuy nó không phải là mục đích duy nhất
của mục đích quản lý giáo dục). Đây là mục đích có tính khách quan. Nhà
quản lý, cùng đông đảo đội ngũ giáo viên, học sinh, các lực lượng xã hội, ….
bằng hành động của mình hiện thực hoá mục đích đó trong hiện thực.
Về thuật ngữ Quản lý giáo dục cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
Theo ý kiến của tác giả Trần Kiểm thì thuật ngữ này có nhiều cấp độ. Ít nhất
có hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Cấp quản lý vĩ mô tương ứng
với việc quản lý một hoặc một loạt đối tượng có quy mô lớn, bao quát toàn
bộ hệ thống. Đối với cấp vĩ mô:
- Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất
cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội. Hoặc:

Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH đất nước; là
điều kiện để tạo ra và phát huy lợi thế cạnh tranh quốc tế của Việt Nam về
nguồn lực con người trong quá trình toàn cầu hoá.
- Quản lý nhà trường:
Nhà giáo dục người Nga Xukhôm linxki đã từng nói: “Trường học là
cái nôi tinh thần của dân tộc. Dân tộc nào biết chăm lo đến cái nôi tinh thần
ấy, họ sẽ có một tương lai rực rỡ”. Dân tộc Việt nam luôn coi trọng sự
nghiệp giáo dục, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Nhà trường là tế bào, là đơn vị cấu trúc cơ sở trong hệ
14
thống giáo dục quốc dân. Chính nơi đây sẽ hiện thực hóa mọi chủ trương,
đường lối, chính sách giáo dục của Đảng, Nhà nước các cấp; đồng thời cũng
là nơi kiểm chứng những vấn đề lý luận Khoa học giáo dục nói chung, Khoa
học quản lý giáo dục nói riêng. Vì vậy, có thể nói nhà trường là bộ mặt phản
ánh nền giáo dục của cả một đất nước.
Nhà trường là thiết chế chuyên biệt của xã hội thực hiện các chức
năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho một nhóm dân cư nhất
định của xã hội đó. Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo kinh
nghiệm xã hội nói trên đạt được các mục tiêu mà xã hội đó đặt ra cho nhóm
dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm
của xã hội.
Chúng ta cũng có thể hiểu nhà trường theo một khái niệm cụ thể hơn:
Nhà trường là thiết chế chuyên biệt của xã hội, nơi tổ chức thực hiện và quản
lý quá trình giáo dục. Quá trình này được thực hiện bởi hai chủ thể: người
được giáo dục(người học) và người giáo dục(người dạy). Trong quá trình
giáo dục, hoạt động của người học (hoạt động học theo nghĩa rộng) và hoạt
động của người dạy (hoạt động dạy theo nghĩa rộng) luôn luôn gắn bó, tương
tác, hỗ trợ nhau, tựa vào nhau để thực hiện mục tiêu giáo dục theo yêu cầu
của xã hội.

luật giáo dục, quy luật tâm lý, quy luật kinh tế, quy luật xã hội…) nhằm đạt
mục tiêu giáo dục.” Hoặc:
+ Quản lý trường học có thể hiểu là một hệ thống những tác động sư
phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học
sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài trường nhằm huy động và phối
hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt động của nhà trường, hướng vào
việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu dự kiến”. [13]
Quản lý nhà trường về bản chất là quản lý con người. Điều đó tạo cho
16
các chủ thể (người dạy và người học) trong nhà trường một sự liên kết chặt
chẽ không những chỉ bởi cơ chế hoạt động của những tính quy luật khách
quan của một tổ chức xã hội - nhà trường, mà còn bởi hoạt động chủ quan,
hoạt động của chính bản thân giáo viên và học sinh. Trong nhà trường, giáo
viên và học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể quản lý. Với tư cách là chủ
thể quản lý, họ là người tham gia chủ động, tích cực vào hoạt động quản lý
chung và biến nhà trường thành hệ tự quản lý. Trong thực tế, giáo viên và
học sinh gắn với rất nhiều quan hệ xã hội trong cộng đồng. Điều này đặt ra
yêu cầu quản lý nhà trường phải gắn với quản lý xã hội và nhiệm vụ quan
trọng của nó là phải thiết lập một quan hệ tối ưu giữa những lợi ích , tình
trạng và sự phát triển của cá nhân, của cộng đồng và của xã hội. Từ góc độ
này, “Quản lý nhà trường thực chất là việc xác định vị trí của mỗi người
trong hệ thống xã hội, là quy định chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ, quan hệ
cùng vai trò xã hội của họ mà trước hết là trong phạm vi nhà trường với tư
cách là một tổ chức xã hội” [12 ]
- Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo
dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo”…[9 ]
Từ các khái niệm đó, ta có thể hiểu: Quản lý trường học là một hệ
thống những tác động sư phạm hợp lý và có tính hướng đích của chủ thể

vấn đề sau:
- Quản lý công tác tổ chức khoa học môi trường và không gian lao động
sư phạm.
- Quản lý công tác tổ chức hoạt động ở xưởng thực hành.
- Đặc biệt là quản lý công tác tổ chức đánh giá chất lượng dạy - học
trong nhà trường.
18
1.4 Nội dung quản lý hoạt động đào tạo nghề
Quản lý công tác đào tạo chính là quản lý các hoạt động toàn diện
nhằm thực hiện các mục tiêu, kế hoạch đào tạo, nội dung chương trình đào
tạo, phương pháp giảng dạy, kết quả nhân cách nghề nghiệp, tri thức về
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp. Đồng thời, với dạy nghề, cần phải coi
trọng công tác quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác
đào tạo ở các xưởng thực tập nghề. Ngoài ra, nội dung quản lý còn thể hiện ở
các điều kiện cần thiết và bảo đảm tính khả thi cho mọi hoạt động khác của
nhà trường như là quy mô đào tạo, tài chính, môi trường sư phạm, môi
trường xã hội.
Để đạt được mục tiêu, yêu cầu và hiệu quả của quản lý hoạt động đào
tạo trong trường cao đẳng nghề, cần phải thực hiện các nội dung quản lý cụ
thể như sau:
- Quản lý công tác tuyển sinh
Cơ quan cấp trên có thẩm quyền giao chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm. Trên
cơ sở đó, nhà trường xác định quy mô và các ngành đào tạo.
- Quản lý việc xây dựng và thực hiện nội dung chương trình và kế
hoạch đào tạo
Qua khảo sát, điều tra nhu cầu của thị trường lao động, nhà trường
phải xây dựng nội dung chương trình đào tạo một cách hợp lý, vừa đảm bảo
hàm lượng kiến thức chuyên môn, vừa đảm bảo kĩ năng nghề nghiệp được
đào tạo. Mặt khác, trên cơ sở đầu vào của sinh viên để phân bố các môn học
trong chương trình một cách khoa học, hợp lôgíc.

kinh phí đầu tư cho mọi hoạt động của nhà trường được Bộ, Ngành cấp, kể
cả việc đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo, đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết
bị kỹ thuật và phương tiện giảng dạy. Ngoài ra, còn nguồn kinh phí do người
học đóng góp và sự đóng góp công sức của đội ngũ giảng viên, sinh viên
20
trong việc tạo ra các vật lực phục vụ cho công tác đào tạo.
Với nguồn kinh phí được đầu tư như hiện nay rất khó khăn trong việc
tổ chức mua sắm, trang bị cho các xưởng thực hành một cách đồng bộ và
phù hợp với công nghệ hiện đại. Vì thế, một trong các biện pháp hỗ trợ cơ sở
vật chất kỹ thuật để sinh viên có thể tiếp cận với sự phát triển của sản xuất,
đồng thời tạo được kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp là quản lý tốt việc tổ chức
liên kết đào tạo với các đơn vị sản xuất - kinh doanh trên cơ sở thoả thuận
cùng phát triển.
- Quản lý công tác quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ giảng viên
Điều lệ trường Cao đẳng được ban hành tại Quyết định số 14.2009.TT -
BGD&ĐT ngày 28.5.2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo, trong đó quy
định Hiệu trưởng phải là người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có uy tín, có
sức khoẻ đã qua giảng dạy hoặc tham gia quản lý giáo dục đại học, cao đẳng ít
nhất là 5 năm. Có học vị từ thạc sĩ trở lên. Các Phó hiệu trưởng phải có học vị
từ thạc sỹ trở lên, có đủ sức khoẻ. Phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo và nghiên
cứu khoa học phải có đủ tiêu chuẩn như đối với hiệu trưởng.
Cán bộ quản lý khoa như Trưởng khoa, Phó trưởng khoa là những
người có uy tín, có kinh nghiệm giảng dạy, nghiên cứu khoa học, quản lý và
có trình độ từ thạc sỹ trở lên. Cán bộ quản lý phòng phải có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ từ bậc đại học trở lên, đảm đương nhiệm vụ tốt, nhiệt tình
công tác và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Giảng viên giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động giảng dạy, giáo
dục; phải đạt trình độ chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất theo quy
định ở điều 26 của Điều lệ trường cao đẳng do Bộ giáo dục ban hành; phải
có tinh thần nỗ lực phấn đấu hết lòng vì sự nghiệp giáo dục - đào tạo.

hành, thực tập, qui định các môn thi, kiểm tra và số giờ dự kiến học ở kỳ
nào.
22
- Lịch học toàn khoá: Thể hiện thời gian học lý thuyết, thực hành,
thực tập, thi học kỳ, thi tốt nghiệp, lao động, dự trữ, nghỉ hè, nghỉ tết, nghỉ lễ
trong học kỳ, năm học và cả khoá học.
+ Công tác tổ chức
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận được quy định trong
Điều lệ trường cao đẳng; đồng thời, căn cứ vào trình độ, năng lực chuyên
môn nghiệp vụ, nhu cầu, hoàn cảnh của mỗi thành viên trong đơn vị mà tiến
hành sắp xếp, phân công nhiệm vụ một cách khoa học, hợp lý. Đặc biệt, phải
xây dựng cơ chế phối hợp, quy chế làm việc, giám sát lẫn nhau, tạo điều kiện
cho nhau để hoàn thành nhiệm vụ. Trong quá trình thực hiện, BGH cần phải
nắm bắt được chất lượng của quá trình đào tạo, kịp thời khen thưởng, động
viên những cá nhân và tập thể làm tốt, đạt hiệu quả cao; đồng thời, thường
xuyên theo dõi uốn nắn những lệch lạc, kịp thời bổ sung, điều chỉnh, từng
bước hoàn thiện thông qua hệ thống quản lý.
+ Công tác chỉ đạo
Để kế hoạch của nhà trường khả thi và đạt hiệu quả cao, BGH kịp thời
ra quyết định quản lý cần thiết để chỉ đạo. điều hành, đưa mọi hoạt động của
nhà trường đi theo đúng kế hoạch đã đề ra. Thực hiện nghiêm túc quy chế
phối hợp giữa các khoa, phòng, bộ phận để cho toàn bộ hệ thống hoạt động
của nhà trường ăn khớp, nhịp nhàng.
Mặt khác, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng uỷ, BGH phối hợp
cùng các tổ chức quần chúng trong đơn vị phát huy quy chế dân chủ cơ sở,
quyền làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của đội ngũ CB, GV, CNV trong nhà
trường, tổ chức các hoạt động thiết thực; tạo môi trường lành mạnh, đoàn
kết, gắn bó, phát huy nội lực, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đóng
góp nhiều nhất sức lực của mình cho sự nghiệp giáo dục đào tạo.
+ Công tác kiểm tra, đánh giá

nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ rèn luyện phẩm chất đạo đức, giữ
gìn uy tín, danh dự nhà giáo; tôn trọng nhân cách và đối xử công bằng với
sinh viên, thực hiện đúng và đầy đủ nội dung, chương trình, kế hoạch cũng
như tiến độ đào tạo, đảm bảo chất lượng giảng dạy của giảng viên.
Quá trình giảng dạy của giảng viên gồm các khâu:
Một là, chuẩn bị bài giảng (tài liệu, giáo trình, đề cương bài giảng,
giáo án, phương tiện, đồ dùng dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật dạy thực
hành…)
Hai là, tổ chức giảng dạy trên lớp (Thực hiện các bước lên lớp, tổ
chức quá trình nhận thức của sinh viên)
Ba là, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
Ba khâu này ảnh hưởng và tác động lẫn nhau, được kết hợp nhuần
nhuyễn với nhau đảm bảo hiệu quả cao nhất của hoạt động giảng dạy.
- Quản lý hoạt động học tập của sinh viên ở trường cao đẳng
Quản lý hoạt động học tập của sinh viên là quản lý việc thực hiện các
nhiệm vụ học tập, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên trong quá
trình đào tạo.
Sinh viên ở trường cao đẳng có nhiệm vụ chấp hành pháp luật của
nhà nước, thực hiện nghiêm túc nội quy, quy chế của nhà trường; học tập,
rèn luyện kỹ năng nghề theo kế hoạch, nội dung, chương trình đào tạo. Tham
gia lao động và hoạt động xã hội phù hợp lứa tuổi, sức khoẻ và năng lực;
tuân thủ các quy định về an toàn lao động và vệ sinh lao động; giữ gìn, bảo
vệ tài sản của nhà trường, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an toàn xã hội;
thực hiện nếp sống văn minh, lành mạnh, góp phần xây dựng và phát huy
truyền thống của nhà trường.
Hoạt động học có vị trí hết sức quan trọng, đúng thứ hai so với hoạt
25

Trích đoạn CÁC CHÍNH SÁCH Mức độ thực hiện Mức độ nhận thức Tính cần thiết KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status