QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ - Pdf 34

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
VADS
TA
TAND
VKS

Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung 2011
Vụ án dân sự
Tòa án
Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát

LỜI MỞ ĐẦU
Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên của quá trình giải quyết một vụ án dân sự và chuẩn bị xét
xử sơ thẩm là một giai đoạn trong xét xử sơ thẩm vụ án dân sự đó. Mặc dù Bộ Luật Tố tụng dân
sự 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011) đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về vấn đề này, tuy nhiên
trong thực tế xét xử vẫn tồn tại những bất cập, hạn chế; từ đó làm ảnh hưởng đến quá trình xét
xử của cả một vụ án. Trong bài viết này, nhóm chúng em xin được trình bày những quy định của
pháp luật hiện hành về giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, qua đó nêu ra những
điểm bất cập, hạn chế và những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề này
NỘI DUNG
I. LÍ LUẬN VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
- Khái niệm: Bộ luật tố tụng dân sự không hề đưa ra khái niệm sơ thẩm vụ án dân sự, tuy
nhiên từ những quy định của pháp luật và xem xét khái niệm này dưới góc độ là một hoạt động
tố tụng thì có thể đưa ra định nghĩa: “ Sơ thẩm vụ án dân sự là việc tòa án cấp có thẩm quyền gải
quyết lần đầu một vụ án dân sự bao gồm các hoạt động khoi kiện, thụ lí, chuẩn bị xét xử và mở
phiên tòa sơ thẩm dân sự”.

trường hợp cần thiết…Tất các các công việc này của giai đoạn xét xử sơ thẩm giúp cho Tòa án
có đủ các tài liệu chứng cứ, nhận thức đúng đắn về vụ án dân sự để giải quyết vụ án dân sự một
cách chính xác.
Giai đoạn chuẩn bị xét sử sơ thẩm vụ án dân sự giúp cho Tòa án tiến hành các hoạt động
cần thiết như: phân công hội đồng xét xử, triệu tập đương sự, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ
sơ vụ án, gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đương sự và Viện kiểm sát, chuẩn bị các điều
kiện về âm thanh, hội trường…để phiên tòa xét xử sơ thẩm được diễn ra đúng tiến độ và có chất
lượng.
Mặt khác trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Tòa án còn tiến hành hoạt động hòa giải, giúp
các đương sự hiểu rõ hơn về quan hệ pháp luật đang tranh chấp, hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa
vụ của mình trong quan hệ đó. Để từ đó các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về cách giải
quyết vụ án dân sự, giúp cho các đương sự tiết kiệm được tiền bạc, thời gian đồng thời giúp cho
Tòa án có thể dành thời gian để xét xử các vụ án khác, không phải cùng một lúc giải quyết quá
nhiều vụ án.
II.QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ CHUẨN BỊ XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
2.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử
2


Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được tính từ ngày Tòa án vào sổ thụ lý vụ án
đến ngày Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, và được quy định rất cụ thể
chi tiết tại điều 179 BLTTDS:
“a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn
tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là hai
tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có
thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc
trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b

ý hoặc không đồng ý với yêu cầu khởi kiện. Trong trường hợp cần gia hạn thì người được
thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi Toà án nêu rõ lý do, nếu việc gia hạn là có căn cứ thì
Toà án phải gia hạn nhưng không quá 15 ngày.
3


Bị đơn ngoài quyền thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn theo Điều 176 còn
có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Trong trường hợp họ không tham gia
tố tụng với bên nguyên đơn hay bị đơn theo Điều 177, họ có quyền đưa ra yêu cầu độc lập.
Theo Điều 178, thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy
định về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn.
2.2.3. Lập và hoàn thiện hồ sơ vụ án.
Để lập hồ sơ vụ án căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, Tòa án phải xác
định các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án yêu cầu của các đương sự, cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện cung cấp, và phải đưa chúng vào hồ sơ vụ án. Thủ tục giao nhận chứng cứ
tài liệu phải được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 84 BLTTDS. Các tài liệu có trong
hồ sơ vụ án phải được sắp xếp theo thứ tự nhất định để thuận tiện cho việc nghiên cứu, sử
dụng và phải có danh mục ghi nhận lại các tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Trong tố tụng dân sự các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu
cầu của mình. Tuy vậy trong những trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng
cứ để cung cấp cho Tòa án và có yêu cầu thì Tòa án có thể áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ do pháp luật quy định để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án dân sự được thực hiện
theo quy định tại các điều từ Điều 85 đến Điều 94 BLTTDS.
Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ án dân sự để
nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ án dân sự. Việc thu thập chứng cứ có ý nghĩa
quan trọng đối với cả việc chứng minh của đương sự và việc giải quyết vụ án dân sự của tòa án
bởi đương sự chỉ có thể chứng minh được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có chứng cứ,
và tòa án chỉ có thể giải quyết đúng được khi có đầy đủ các chứng cứ để làm rõ được các vấn đề
của vụ án dân sự. Điều này được quy định tại Điều 85 BLTTDS.

01/01/2005 ;
Nếu tranh chấp phát sinh từ ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị
xâm phạm;
Nếu quyền yêu cầu phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn một năm, kể từ ngày
01/ 01/2005;
Nếu quyền yêu cầu phát sinh từ ngày 01/01/2005, thì thời hạn một năm, kể lừ ngày phát
sinh quyền yêu cầu.
+Xác định tư cách người tham gia tố tụng đã đúng và đầy đủ hay chưa. Tuy việc xác
định người tham gia tố tụng và đại diện của họ được thực hiện ngay từ khi thụ lý vụ án
nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Tòa án phải lưu ý xem xét việc
xác định tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã đúng và đầy
đủ hay chưa. Nếu chưa đúng và đầy đủ thì Tòa án cần triệu tập thêm đương sự và xác định
tư cách đương sự để giúp cho việc giải quyết vụ án được thuận lợi.
+ Xác định vụ án đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật hay chưa. Nếu vụ án chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật thì Tòa án tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án. Nếu vụ án đã được giải quyết bằng
một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Nghiên cứu các vấn đề về nội dung của vụ án dân sự.
+Xác định quan hệ pháp luật làm phát sinh tranh chấp: Để giải quyết đúng đắn vụ án
Thẩm phán cần phải xác định rõ quan hệ pháp luật làm phát sinh tranh chấp thuộc loại quan
hệ nào. Trong vụ án có một quan hệ hay nhiều quan hệ pháp luật cần giải quyết. Nếu vụ án
có nhiều quan hệ pháp luật cần giải quyết thì TA cần xác định các quan hệ pháp luật này có
liên quan đến nhau hay không. Nếu có liên quan thì giải quyết trong cùng một vụ án, nếu
không có thì tách ra giải quyết bằng vụ án khác. Bên cạnh đó TA cần xác định vụ án có yêu
cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan hay không.
Nếu có thì Tòa án sẽ áp dụng quy định Điều 176,177 và Điều 178 BLTTDS để giải quyết.
+ Làm rõ những tình tiết liên quan của vụ án: Sau khi xác định rõ quan hệ pháp luật
làm phát sinh tranh chấp TA cần làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án như quyền và nghĩa

về vấn đề đang tranh chấp và đưa ra định hướng giải quyết. Khi đương sự thỏa thuận được với
nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản
hòa giải có nội dung theo quy định tại Điều 186 BLTTDS. Biên bản này chưa có giá trị pháp lý,
nó chỉ là tài liệu văn bản xác nhận một sự kiện và nó là cơ sở để tòa án ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của đương sự.
* Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào
thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán
được Chánh án TA phân công ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Trong
thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương
sự, TA phải gửi quyết định đó cho các đương sự và VKS cùng cấp. Tuy nhiên, thẩm phán chỉ ra
quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự nếu các đương sự thoả thuận được với
nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ
luật này mà các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thoả
thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận
nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thoả thuận
của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thoả thuận này chỉ có giá
trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hoà giải
đồng ý bằng văn bản.
Theo Điều 188 BLTTDS thì quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có
hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự đã khép lại qua trình tố tụng
đối với việc giải quyết vụ án, tuy nhiên để đề phòng có sai lầm hay vi phạm pháp luật có thể xảy
6


ra trong quá trình tiến hành hòa giải thì khoản 2 Điều 188 quy định: “Quyết định công nhận sự
thoả thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ
cho rằng sự thoả thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ hoặc trái pháp luật, trái đạo đức
xã hội”.

người đại diện theo pháp luật; Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người
thay thế; Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy
định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án. Các trường
hợp khác mà pháp luật có quy định”.
Theo quy định tại Điều 194 BLTDS, khi phát hiện có một trong các căn cứ nêu trên thì
thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự đó. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS phải được lập thành văn
bản. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án không phải là chấm dứt việc giải quyết vụ án và đình
chỉ tố tụng mà bản thân quá trình giải quyết vụ án chỉ tạm thời bị gián đoạn trong một thời gian
nhất định. Tính chất gián đoạn tạm thời này sẽ được khắc phục, mọi hoạt động tố tụng sẽ được
khôi phục khi nguyên nhân của việc tạm đình chỉ không còn nữa.
7


2.3.4. Đình chỉ giải quyết vụ án.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nếu có căn cứ do pháp luật quyy định để ngừng việc giải
quyết VADS thì TA sẽ quyết định ngừng việc giải quyết VADS - Quyết định đình chỉ giải quyết
VADS. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc tòa án quyết định ngừng việc giải quyết vụ án
dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định.
Đặc điểm của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là sau khi có quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự, các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự được ngừng lại.
Theo quy định tại Điều 192 BLTTDS, các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự gồm
có:
“Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được
thừa kế; Cơ quan, tổ chức bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan,
tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; Người khởi kiện rút đơn
khởi kiện và được tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; Cơ quan,
tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu
không tiếp tục giải quyết vụ án; Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu tòa án tiếp tục
giải quyết vụ án; Nguyên đơn đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; Đã có quyết


III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC CHUẨN BỊ XÉT XỬ
3.1. Những ưu điểm của pháp luật hiện hành quy định về công tác chuẩn bị xét xử1
Thứ nhất, về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. có thể thấy rằng, quy định về vấn đề này
của pháp luật là khá hợp lý. Pháp luật đã đặt ra quy định này trên cơ sở nội dung yêu cầu của
đương sự là đơn giản hay phức tạp và thời gian trung bình để TA tiến hành các công việc nhằm
đưa vụ án dân sự ra xét xử. Với thời hạn như vậy là cần thiết để nghiên cứu một cách kỹ lưỡng
hồ sơ, yêu cầu của các đương sự, các chứng cứ, tài liệu liên quan, nhưng đồng thời cũng không
quá dài làm vụ án bị trì trệ, những vụ án mang tính chất nhạy cảm như hôn nhân và gia đình có
thể được giải quyết một cách kịp thời, đáp ứng yêu cầu của các đương sự, tránh việc gây ra
những thiệt hại về quyền và lợi ích cho họ do thời hạn chuẩn bị xét xử quá lâu.
Thứ hai, về vấn đề thông báo việc thụ lý VADS quy định tại Điều 174 BLTTDS cho bị
đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và VKS cùng cấp. Việc thông
báo này đã giúp cho các đương sự nắm bắt được quá trình giải quyết vụ án và có các biện pháp
để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của mình. VKS là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật,
do đó, nếu được thông báo đầy đủ quá trình giải quyết vụ án dân sự ngay từ giai đoạn đầu tiên
thụ lý vụ án dân sự thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho VKS thực hiện tốt chức năng của mình,
đảm bảo quá trình giải quyết VADS diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định tại Khoản 1 điều 176 BLTTDS
2004 khi chưa được sửa đổi bị hạn chế trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thụ
lý vụ án của TA do phải nộp yêu cầu phản tố cùng lúc với việc nộp văn bản ghi ý kiến đối với
yêu cầu của người khởi kiện2. Việc hạn chế này là chưa hợp lý bởi sự hạn chế này là không phù
hợp với nguyên tắc các đương sự được bình đẳng khi tham gia tố tụng do nguyên đơn được
quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu trong khi bị đơn lại không được quyền đưa ra yêu cầu phản tố
để được TA xem xét trong cùng một vụ án như nguyên đơn. Do vậy, để tránh những vướng mắc
trong quá trình giải quyết vụ án, Điều 176, 177 BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã qui định cho phù
hợp như sau: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước khi TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Đây là
một điểm tiến bộ so với BLTTDS năm 2004 nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương

Thứ ba, trong quá trình hòa giải, có quy định về trường hợp bị đơn cố tình vắng mặt thì
không tiến hành hòa giải được (Điều 182 BL TTDS). Tuy nhiên, Luật thực định chưa có quy
định cụ thể về “cố tình vắng mặt” là như thế nào. Mặt khác, quy định hiện hành cũng mới chỉ
dừng ở việc quy định về trường hợp đương sự là bị đơn vắng mặt mà chưa có quy định cụ thể về
trường hợp đương sự là nguyên đơn vắng mặt trong buổi hòa giải đến lần thứ hai. Điều này sẽ
gây khó khăn cho TA trong việc quyết định tiến hành bước tiếp theo trong việc giải quyết vụ án
sơ thẩm.
Thứ tư, pháp luật hiện hành chưa có quyết định phân công thẩm phán thụ lý vụ án.
Quyết định này sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho thẩm phán được phân công để giải quyết vụ
việc, đồng thời giúp người thẩm phán có trách nhiệm hơn với công việc của mình. Mặt khác,
quyết định phân công thẩm phán khi được gửi tới cho các đương sự liên quan sẽ giúp họ có thể
sớm đưa ra yêu cầu thay đổi thẩm phán nếu vị thẩm phán được phân công bị rơi vào trường hợp
phải bị thay đổi để đảm bảo sự công bằng cho các đương sự (căn cứ theo Điều 46, 47 BL
TTDS).
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong thủ tục chuẩn bị xét xử sơ thẩm3
Từ những mặt hạn chế trên nhóm xin nêu một số kiến nghị đề hoàn thiện qui định của
BLTTDS trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm:
Thứ nhất, để bảo vệ quyền tố tụng chính đáng của đương sự và bảo đảm đúng thủ tục
tố tụng. BLTTDS nên quy định bổ sung về hình thức văn bản xác nhận việc Tòa án thụ lý vụ án
chứ không chỉ dừng lại ở việc xem xét biên lai nộp tiền tạm ứng án phí mà đương sự đưa cho
Tòa án như hiện nay.
Thứ hai, đối với trường hợp những đương sự thấy rằng các chứng cứ chứng minh cho
vụ việc được người khởi kiện đưa ra trong đơn là rõ ràng và đầy đủ, họ không có yêu cầu gì
thêm, do đó, thấy không cần thiết phải nộp bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người
khởi kiện. Vậy hậu quả pháp lý họ phải nhận khi đó là gì? Điều này cần được các nhà làm luật
làm rõ tại điểm g khoản 2 điều 174 BLTTDS.
Thứ ba, cần qui định cụ thể thế nào là “cố tình vắng mặt” của bị đơn trong phiên hòa
giải tại khoản 1 điều 182 BLTTDS. Có thể coi “cố tình vắng mặt” khi bị đơn biết rõ nghĩa vụ
phải có mặt của mình nhưng vẫn vắng mặt mà không đưa ra được lí do chính đáng nào.
Thứ tư, đối với trường hợp vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và

1. Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB CAND,
Hà Nội, 2010.
2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự : Khoá luận tốt nghiệp / Lê Thị Lan; Người
hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thu Hà, Đại học Luật Hà Nội, 2011
3. Hoàn thiện các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự trong Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2004 / Đoàn Đức Lương, Tạp chí tòa án nhân dân, Tòa án
nhân dân tối cao, số 04/2011.
4. Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011
5. Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 Hướng dẫn thi hành một số
quy định tại chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS.

11




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status