Phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay - Pdf 36

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Con người luôn ở vị trí
trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tri thức con
người là một nguồn lực không bao giờ cạn và luôn được tái sinh với chất lượng ngày
càng cao hơn bất cứ một nguồn lực nào khác. Lịch sử phát triển nhân loại đã kiểm
nghiệm và đi đến kết luận: nguồn lực con người là lâu bền nhất, chủ yếu nhất trong sự
phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp tiến bộ của nhân loại.
Trước đây, trong các nhân tố sản xuất truyền thống như: đất đai, lao động, vốn thì đất
đai được coi là nhân tố sản xuất quan trọng nhất. Song, ngày nay đã có sự thay đổi thứ tự ưu
tiên. Chính nguồn nhân lực có chất lượng cao mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình.
Vì vậy, để có được tốc độ phát triển cao các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm tới việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh
nghiệp, các công ty, các sản phẩm chủ yếu là cạnh tranh về tỷ lệ hàm lượng chất xám kết
tinh trong sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhờ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đối với các quốc gia trên thế
giới đã và đang trỏ thành vấn đề cấp bách có tầm chiến lược, là vấn đề có tính chất
sống còn trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế với trình độ khoa học – công nghệ ngày
càng cao và sự lan tỏa của kinh tế tri thức.
Trong văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định chiến
lược phát triển KT - XH 2011 - 2020 là “tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo định hướng XHCN” [6].Để thực hiện định hướng
trên, chiến lược đề ra một trong năm quan điểm phát triển KT-XH 2011 – 2020 là: “Mở
rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ
yếu và là mục tiêu của sự phát triển”, đồng thời xác định một trong ba khâu đột phá quan
trọng là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân” [6].

1

lực du lịch của tỉnh để có những giải pháp nhằm tạo ra một sự chuyển biến về chất,

2


nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐHcủa tỉnh trở thành nhiệm vụ cấp thiết.
Với ý nghĩa trên, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực
cho ngành du lịch ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở tỉnh Ninh Bình cũng như trong cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu
khoa học, luận văn tốt nghiệp về vấn đề nguồn nhân lực, phát triển du lịch ở nhiều góc
độ và phạm vi rộng hẹp khác nhau như:
- Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay do GS. Phạm Huy Lê
và GS. TSKH Vũ Minh Giang (chủ biên), Chương trình KX07, Đề tài KX07 - 02, Hà
Nội, tập I - 1994, tập II – 1996
- Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH của GS, VS. Phạm
Minh Hạc (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001)
- Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH do GS, VS. Phạm Minh
Hạc chủ biên(NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001)
- Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ CNH, HĐH do GS, VS.
Phạm Minh Hạc và nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chủ biên (NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003)
- “Phân tích và đánh giá chất lượng đội ngũ lao động tại cac khách sạn trên địa
bàn thành phố Huế” của Đoàn Công Thiện, năm 2007
- Nghiên cứu con người đối tượng và những hướng chủ yếu (NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2001)
- Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước của TS. Nguyễn
Thanh (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)

- Đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch nhằm đáp ứng
phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình nói chung đến
năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp
kinh doanh du lịch ở tỉnh Ninh Bình, trong đó đề tài đi sâu nghiên cứu phát triển

4


nguồn nhân lực trong các đơn vị lưu trú, coi đó là nhân tố quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội ở Ninh Bình.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
4.2.1 Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu nguồn nhân lực trong ngành du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
4.2.2 Phạm vi thời gian
Đề tài nghiên cứu thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch ở tỉnh Ninh Bình
trong giai đoạn từ 2005 – 2010.
4.2.3 Phạm vi nội dung
Do điều kiện và năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu đặc điểm, vai trò, các nhân tố tác động, thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong
ngành du lịch, đưa ra các giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm phát triển nguồn
nhân lực trong ngành du lịch đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở tỉnh Ninh Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng một số biện pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng: Là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng
kinh tế - xã hội trong trạng thái vận động và có các mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nó
cho phép phân tích một cách khách quan các vấn đề nghiên cứu như: hiện trạng của
việc phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở tỉnh Ninh Bình, vai trò của nguồn


6


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG NGHÀNH DU LỊCH
1.1 Nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Nguồn nhân lực
Thuật ngữ “NNL” được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế phát triển từ
những năm 80 của thế kỷ XX với ý nghĩa là nguồn lực con người, phản ánh sự đánh giá lại
vai trò yếu tố con người trong quá trình phát triển. Sự xuất hiện của thuật ngữ “NNL” thể
hiện sự công nhận của phương thức quản lý mới trong việc sử dụng nguồn lực con người.
Nguồn lực con người được hiểu là tổng hòa của các mối quan hệ thống nhất giữa năng
lực, thể lực, trí lực, văn hóa và tính năng động, nhạy bén của con người trong một xã hội
[10,32].
Khái niệm NNL có nguồn gốc từ bộ môn kinh tế học và kinh tế chính trị, được
gọi một cách truyền thống là LĐ - một trong bốn yếu tố của sản xuất.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về NNL. Có định nghĩa tiếp cận theo
hướng coi NNL là nguồn lực với yếu tố vật chất, tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh
phục vụ cho sự phát triển chung của các tổ chức. Với cách tiếp cận này, NNL được
hiểu là nguồn lực con người của các tổ chức có quy mô, loại hình, chức năng khác
nhau, có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức cùng với
sự phát triển KT - XH của quốc gia, khu vực và thế giới.
Xem xét con người từ góc độ là những lực lượng LĐ cơ bản nhất trong xã hội,
chủ nghĩa Mác – Lênin coi nguồn lực con người là là lực lượng sản xuất hàng đầu của
nhân loại, là phương tiện chủ yếu để sản xuất hàng hóa, dịch vụ.
Lí luận về vốn con người xem xét nhân tố con người với tư cách là một yếu tố
của quá trình sản xuất, một phương tiện để phát triển KT - XH và còn xem xét con

trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ, năng lực thẩm mỹ,... của người lao
động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng trong việc
xem xét đánh giá chất lượng NNL.
- Cơ cấu NNL: đây là yếu tố không thể thiếu khi xem xét đánh giá về NNL. Cơ
cấu nhân lực thể hiện trên các phương diện khác nhau: cơ cấu về trình độ ĐT, dân tộc,
giới tính, độ tuổi,…
8


NNL là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh. Trước
hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực. NNL nằm ngay trong bản
thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người và các
nguồn lực khác. Thứ hai, NNL được hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân. Với
tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển, NNL là nguồn lực con người có khả
năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, được biểu hiện ra là số lượng
và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định.
Với cách hiểu như vậy, nội hàm NNL không chỉ bao hàm những người trong độ
tuổi lao động, cũng không chỉ bao hàm về mặt chất lượng, mà còn chứa đựng các hàm
ý rộng hơn, gồm toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có khả
năng đem lại thu nhập trong tương lai. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con
người được coi là phương tiện hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế
bền vững.
NNL cũng được nhìn nhận về khía cạnh số lượng, không chỉ những người trong
độ tuổi mà cả những người ngoài độ tuổi lao động. NNL là tổng thể các tiềm năng LĐ
của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc LĐ nào đó; nguồn
lực con người được thể hiện thông qua số lượng dân cư, chất lượng con người (bao
gồm thể lực, trí lực và năng lực phẩm chất), tức là không chỉ bao hàm số lượng, chất
lượng, cơ cấu NNL hiện tại, mà còn bao hàm của nguồn cung cấp nhân lực trong
tương lai của mỗi tổ chức, mỗi địa phương, mỗi quốc gia, khu vực và thế giới.
NNL được hình thành trên cơ sở các cá nhân có vai trò khác nhau và được liên

triển, mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định”.[17]
Chất lượng NNL được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu, trong đó có các chỉ
tiêu chủ yếu sau:
- Tình trạng sức khỏe của dân cư:
Sức khỏe là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần. Sức khỏe là tổng hòa nhiều
yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần.
Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khỏe chia thành: thể lực tốt, loại không có
bệnh tật gì, thể lực trung bình, thể lực yếu, không có khả năng lao động.
Bên cạnh các chỉ tiêu về trạng thái sức khỏe của người LĐ còn có chỉ tiêu đánh
giá tình trạng sức khỏe của một quốc gia như: tỷ lệ sinh thô, tỷ lệ chết thô, tỷ lệ tăng tự
nhiên, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính, tuổi tác,…

10


- Trình độ văn hóa của người lao động:
Trình độ văn hóa của người LĐ là sự hiểu biết của người LĐ đối với những kiến
thức phổ thông về tự nhiên và xã hội, biểu hiện thông qua: số lượng người biết chữ và
chưa biết chữ; số người có trình độ tiểu học; số người có trình độ phổ thông cơ sở; số
người có trình độ phổ thông trung học; số người có trình độ Đại học – Cao đẳng;…
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động:
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người LĐ là sự hiểu biết, khả năng thực hành
về chuyên môn nào đó. Trình độ chuyên môn của người LĐ được đo bằng: tỷ lệ cán
bộ trung cấp, tỷ lệ cán bộ Cao đẳng, Đại học, trên Đại học.
Trình độ kỹ thuật của người LĐ thường được dùng để chỉ trình độ của người
được ĐT ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những khả năng
thực hành về công việc nhất định, trình độ kỹ thuật được biểu hiện thông qua các chỉ
tiêu: số lượng ĐT và LĐ phổ thông; số người có bằng kỹ thuật và không có bằng;
trình độ tay nghề theo bậc thợ;…
- Chỉ số phát triển con người (HDI):

hơn. Nó không chỉ là trình độ hay rộng hơn là ĐT mà còn là phát triển năng lực và sử
dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thỏa
mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện không chỉ nhờ
quá trình ĐT, bồi dưỡng mà còn cả sự tích lũy kinh nghiệm trong cuộc sống và quá
trình làm việc của người lao động”. [26 ]
Phát triển NNL được hiểu cơ bản là gia tăng giá trị cho con người trên các mặt
đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực,...làm cho con người trở thành những người
LĐ có những năng lực mới và cao, đáp ứng được những yêu cầu to lớn của sự phát
triển KT – XH, của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước [35, 285].
Khái niệm phát triển NNL cần được hiểu đầy đủ hơn trong quản lý NNL, bao
gồm 3 mặt phải quản lý: phát triển NNL (PTNNL); sử dụng NNL (SDNNL); nuôi
dưỡng môi trường cho NNL (MTNNL) theo sơ đồ dưới đây: [35, 287]

12


QLNNL

PTNNL

SDNNL

MTNNL

L

- Giáo dục
- ĐT
- Bồi dưỡng
- Phát triển

tăng trưởng kinh tế cao, bình quân 7,5% / năm, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN bước đầu được xây dựng, chiến lược CNH, HĐH đã bắt đầu được đẩy mạnh;
quan hệ đối ngoại, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao; chính trị - xã hội
ổn định,…Đạt được nhiều thành tựu trên là nhờ sức mạnh tổng hợp từ nhiều yếu tố:
đường lối đúng đắn của Đảng, sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, sự
điều hành năng động của Chính phủ,… Đại hội Đảng lần thứ X đã khảng định: “Tăng

13


cường phát huy nội lực bằng cách phát triển NNL chủ yếu cho giai đoạn đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế” …” [5]
Quan điểm phát triển NNL lại được Đảng đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI. Đó là: Đảng ta đã xác định chiến lược phát triển KT - XH 2011 2020 là “tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền
vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo định hướng XHCN”. Để thực hiện định hướng trên, chiến lược đề ra một
trong năm quan điểm phát triển KT-XH 2011 – 2020 là: “Mở rộng dân chủ, phát huy
tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu
của sự phát triển”, đồng thời xác định một trong ba khâu đột phá quan trọng là: “Phát
triển nhanh NNL, nhất là NNL chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân”[6].
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng chiến lược phát triển NNL, chiến
lược phát triển con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều nhằm quán triệt tư tưởng
chăm lo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển toàn
diện con người Việt Nam.
Tóm lại, có thể hiểu phát triển NNL theo nghĩa chung nhất, đó là tổng thể các
chính sách, biện pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao năng lực của con người về mọi mặt:
thể lực, trí lực và nhân lực, đồng thời phân bổ, sử dụng và phát huy có hiệu quả nhất
nhân lực của nguồn LĐ để phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển.

nhất. Do hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác
nhau mỗi người có một cách hiểu về DL khác nhau.
Thuật ngữ DL trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa
đi một vòng. Thuật ngữ này được La tinh hoá thành tornus và sau đó thành tourisme
(tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh) [31, 6].
Cho đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm DL, có những tác giả
tập trung giải thích DL như một hiện tượng di chuyển, lưu trú ngoài nơi cư trú thường
xuyên; nhóm khác lại tập trung vào bản thân du khách và khía cạnh kinh tế của DL.
Giáo sư, tiến sĩ Hunziker và giáo sư, tiến sĩ Krapf – Hai người được coi là đặt nền
móng cho lý thuyết về cung DL đưa ra định nghĩa như sau: “DL là tập hợp các mối
quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những

15


người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và
không dính dáng đến hoạt động kiếm lời” [37, 8].
Tổ chức DL Thế giới (UNWTO) - một tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc, đưa ra
định nghĩa: “DL bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú,
trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích
nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác
nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống
định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. DL cũng là
một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.” [37, 8].
Một quan niệm khác cho rằng: “ DL là một ngành công nghiệp nhằm biến các tài
nguyên nhân lực, vốn và nguyên liệu thành dịch vụ và sản phẩm DL. Trước hết, DL là
một hiện tượng nhân văn, liên hệ đến các giác quan, nhằm đáp ứng nhu cầu về thời
gian rảnh rỗi” [25, 43].
Ngành DL Việt Nam có lịch sử phát triển hơn 50 năm, nhưng chỉ thực sự phát
triển nhanh vào những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Nếu so sánh với các

 Khái niệm về ngành DL
Ngành DL phát triển đến nay đã có lịch sử một thế kỷ rưỡi, nhưng nhận thức của
mọi người đối với ngành DL vẫn chưa hoàn toàn thống nhất.
Người khai phá ngành DL cận đại là Thommas Cook xuất phát từ góc độ của nhà
kinh doanh DL, đã nêu ra ngành DL tức là: “Để du khách thu được hứng thú tình cảm xã
hội lớn nhất, tổ chức sự nghiệp để người ta đưa hết trách nhiệm lớn nhất” [7,151, 152].
Người Nhật Bản cho rằng ngành DL là “công nghiệp tin tức” có thể phản ảnh tình
thế chính trị, nếp sống xã hội và sự giao du giữa người với người trong DL, coi trọng tiếp
đãi nhiệt tình, nên gọi nghành DL là ngành “tiếp đãi hữu hảo nhiệt tình” [7, 152].
Các cách nói trên chỉ là sự giải thích đơn giản, dễ hiểu đối với một số đặc điểm
và tác dụng của ngành DL chứ chưa vạch rõ đặc trưng bản chất của ngành DL.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ nhanh chóng của ngành DL
thế giới, việc nghiên cứu của mọi người đối với ngành DL cũng không ngừng đi sâu,
rất nhiều quan điểm đều có tính gợi ý mở.
Nhà DL học người Mỹ Đường Nạp Đức – Lan Đức Bá Cách trong quyển Ngành DL
cho rằng: “DL là ngành nghề có hàng loạt mối liên quan lẫn nhau để phục vụ du khách
trong và ngoài nước. DL liên quan tới du khách, hình thức lữ hành, cung cấp ăn ở thiết bị

17


và các sự vật khác, nó cấu thành một khái niệm tổng hợp không ngừng biến đổi theo thời
gian và hoàn cảnh, một khái niệm đang hoàn thành và đang thống nhất” [7,152].
Lợi Khắc Kha Luân Thiết – một học giả người Anh cho rằng DL là “công nghiệp
giao thông”, Ông cho rằng “công nghiệp giao thông có thể được coi là một bộ phận của
kinh tế quốc dân, nhiệm vụ của nó là phục vụ cho du khách rời khỏi nơi thường trú đi
thăm viếng nơi khác. Đó là nền kinh tế tổng hợp do nhiều ngành thương nghiệp và công
nghiệp tổ hợp thành, chức năng của nó là nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách” [7, 153].
Học giả Mexico trong Ngành DL là môi giới giao lưu của loài người luận bàn
rằng: “Ngành DL có thể được xem là tổng các mối quan hệ được hình thành nên nhằm

và sửa chữa,… Các dịch vụ và phương tiện phục vụ khách DL bao gồm: nhà hàng,
quầy bar, cơ sở lưu trú, ngân hàng, viễn thông, các cửa hàng bán lẻ, của hàng sách…,
và hoạt động của một số cơ quan QLNN liên quan đến phục vụ khách DL như: biên
phòng, xuất nhập cảnh, hải quan cũng được tổ chức tại đây.
+ Tại điểm đến DL:
- Hoạt động của các doanh nghiệp phục vụ DL tuyến trước hay các doanh nghiệp
có giao dịch trực tiếp với du khách bao gồm: Dịch vụ lưu trú - KS , nhà nghỉ, khu nghỉ
mát; dịch vụ ăn uống - nhà hàng, quán Bar; dịch vụ vui chơi giải trí - các phương tiện
thể thao, rạp hát, sòng bạc, công viên giải trí, viện bảo tàng, các sự kiện và hoạt động
lễ hội; dịch vụ lữ hành, vận chuyển-các hãng lữ hành, phòng bán vé hàng không, xe
tuyến, tàu hỏa, tàu thủy, taxi, xe cho thuê.
- Hoạt động của các doanh nghiệp và dịch vụ hỗ trợ DL tuyến sau bao gồm các
doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp phục vụ DL tuyến
trước như: công ty xây dựng, kiến trúc, công ty quảng cáo, công ty bia rượu, nước giải
khát, công ty phát hành thẻ tín dụng, công ty vận tải, thương mại bán buôn, bán lẻ
hàng hóa, vệ sinh môi trường, cung cấp điện, nước, kỹ thuật, sức khỏe, y tế…
- Hoạt động của các cơ quan QLNN chuyên ngành có liên quan đến hoạch định
chính sách, điều hành, kiểm soát, quản lý các dịch vụ phục vụ DL như: cơ quan cấp
phép, đăng ký kinh doanh, cơ quan bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, cơ quan
quản lý rừng quốc gia, bảo tồn thiên nhiên, cơ quan quản lý văn hóa…

19


- Hoạt động của cộng đồng dân cư liên quan đến phục vụ DL, như: các gia đình,
cá nhân, các tổ chức cộng đồng của dân tộc ít người tham gia quá trình phục vụ khách
DL một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Hoạt động của các đơn vị ĐT cung cấp NNL cho các doanh nghiệp DL tuyến
trước và tuyến sau.
Tóm lại, NNL ngành DL được hiểu là lực lượng LĐ tham gia vào quá trình phát

- Không đồng đều về chất lượng và cơ cấu: Có sự phân bố không đồng đều theo
lãnh thổ và các nghiệp vụ DL. Xuất phát từ tính định hướng tài nguyên rõ nét của
ngành DL, các hoạt động DL thường diễn ra tại các khu, điểm DL, những nơi có nhiều
tài nguyên DL và được đầu tư đồng bộ về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật ngành. Vì
vậy, phần lớn LĐ đã qua ĐT đều làm việc tại những khu DL, trung tâm DL lớn, ở
những khu vực còn lại thường thiếu lao động.
Trong ngành DL có nhiều công việc với yêu cầu LĐ giản đơn, không đòi hỏi
phải ĐT ở trình độ cao mới thể hiện được, dẫn đến tình trạng tỷ lệ LĐ chưa tốt nghiệp
phổ thông trung học khá cao. Ngược lại, ở những bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khách
DL, đội ngũ LĐ thường được trang bị đầy đủ các kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ,
giao tiếp và tỷ lệ thông thạo ngoại ngữ tương đối cao.
- Có sự biến động mạnh về số lượng theo thời gian trong năm: Do ảnh hưởng của
tính thời vụ DL các hoạt động DL thường diễn ra sôi động trong một thời gian nhất
định của năm (còn gọi là mùa cao điểm), vào thời điểm cao điểm của mùa DL, các
doanh nghiệp DL thường phải tuyển dụng thêm các LĐ thời vụ để đáp ứng nhu cầu
kinh doanh, phục vụ khách của mình. Đến mùa thấp điểm, doanh nghiệp DL chấm dứt
hợp đồng LĐ với những LĐ thời vụ.
Lực lượng LĐ làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp DL lại được chia thành
4 nhóm cơ bản với vai trò và đặc trưng khác nhau trong quá trình hoạt động kinh
doanh DL:
+ Nhóm LĐ chức năng quản lý chung: Nhóm này gồm những người đứng đầu các
đơn vị kinh tế cơ sở (doanh nghiệp kinh doanh KS , hãng lữ hành DL, vận chuyển DL, là
tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc hoặc các chức danh tương đương). LĐ của người
lãnh đạo trong lĩnh vực kinh doanh DL có những điểm riêng biệt, bởi đối tượng, công cụ và
sản phẩm LĐ của họ có tính đặc thù, thể hiện:

21


- Là loại LĐ trí óc đặc biệt: Trong quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện


Nhóm LĐ này rất đông đảo, thuộc nhiều ngành nghề khác nhau và đòi hỏi phải tinh
thông nghề nghiệp. Trong KS có LĐ thuộc nghề lễ tân; nghề buồng; nghề chế biến món
ăn; nghề bàn và pha chế đồ uống; Trong kinh doanh lữ hành có LĐ làm công tác điều
hành chương trình DL, marketing DL và đặc biệt có LĐ thuộc nghề hướng dẫn DL...
Trong ngành vận chuyển khách DL có LĐ thuộc nghề điều khiển phương tiện vận
chuyển DL...
1.3 Vai trò và xu hướng phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch
1.3.1 Vai trò của phát triển nguồn nhân lực đối với ngành du lịch ở Việt Nam
Phát triển NNL DL là những hoạt động nhằm tăng cường số lượng và nâng cao
chất lượng, hiệu quả làm việc của lực lượng LĐ đang và sẽ làm việc trực tiếp trong
ngành DL, bao gồm: LĐ thuộc các cơ quan QLNN về DL và các đơn vị sự nghiệp
trong ngành từ trung ương đến địa phương, LĐ trong các doanh nghiệp DL gồm đội
ngũ cán bộ quản trị kinh doanh, đội ngũ LĐ nghiệp vụ trong các KS - nhà hàng, công
ty lữ hành, vận chuyển DL..., LĐ làm công tác ĐT DL trong các trường dạy nghề,
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học [8].
NNL là nguồn lực đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển KT – XH của nước
ta nói chung và đối với ngành DL nói riêng. Vai trò đó được thể hiện trên những khía
cạnh sau:
Thứ nhất: phát triển NNL quyết định đến sự phát triển của các nguồn lực khác.
Trong ngành kinh tế nói chung và trong ngành DL nói riêng, so với các nguồn lực
khác, NNL có vai trò nổi bật ở chỗ: nó không bị cạn kiệt đi trong quá trình khai thác
và sử dụng. Ngược lại, NNL có khả năng tái sính và phát triển nếu biết bồi dưỡng,
khai thác và sử dụng hợp lý. Xét trong ngành DL, có thể thấy rằng: DL là một ngành
đòi hỏi NNL lớn với nhiều loại trình độ khác nhau do tính chất, đặc điểm của ngành có
mức độ cơ giới hóa thấp và đối tượng phục vụ là khách hàng với nhu cầu rất đa dạng.
Chất lượng dịch vụ được cung cấp cho khách hàng không chỉ phụ thuộc vào trình độ,
kỹ năng, tay nghề của người LĐ mà còn phụ thuộc vào thái độ làm việc của họ. Chính
điều này đã làm cho yếu tố con người trở thành nguồn lực cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững của ngành. Do đó, ở hầu hết các quốc gia hiện nay, đều đặt con

và toàn cầu hóa. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ
và nhanh chóng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống KT – XH, cùng với đó là quá
trình toàn cầu hóa đã tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho các nước phát triển được
nhiều ngành, trong đó DL được coi là ngành “công nghiệp không khói” giàu tiềm năng
24


nhất. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đem đến sự thỏa mãn về nhu cầu
tiêu dùng của khách hàng như tiêu chuẩn về phòng ngủ, dịch vụ vận chuyển, tiện nghi…
Một trong những điểm khác biệt tạo nên đặc điểm riêng có của ngành DL ở mỗi
quốc gia trong quá trình toàn cầu hóa đó là thái độ phục vụ của nhân viên trong các
đơn vị kinh doanh DL, khả năng đáp ứng sự thỏa mãn trong việc tiêu dùng các sản
phẩm DL của khách hàng bởi vì nhu cầu của con người vô cùng phong phú, đa dạng
và không ngừng tăng lên. Có thể nói, để đảm bảo khả năng cạnh tranh hiệu quả trong
ngành DL và đảm bảo cho sự phát triển bền vững, các nước phải nhanh chóng giải
quyết một cách có hiệu quả việc phát triển NNL đặc biệt là NNL chất lượng cao.
Tóm lại, việc nhận thức đủ tầm quan trọng của người LĐ trong hoạt động thực
tiễn của ngành DL, sự đầu tư, quan tâm đúng mức tới công tác nhân sự có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Vấn đề đặt ra đối với ngành DL là thu hút và duy trì được những
người LĐ có năng lực, trình độ, thái độ làm việc phù hợp, lựa chọn đúng người đúng
việc để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp DL muốn tồn tại và phát
triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, cần phải nhận thức rõ hơn vai trò
của việc phát triển NNL, đặc biệt là NNL trực tiếp, đồng thời cần phải làm tốt công tác
quản trị NNL. Phát triển NNL trong ngành DL nhằm tạo ra những chính sách, chiến
lược kịp thời và phù hợp. Trong bất kỳ lĩnh vực nào thì yếu tố con người luôn đóng vai
trò quyết định tới sự thành công. Một địa danh DL đẹp nhưng ở đó con người không
thân thiện, thiếu ý thức bảo vệ cộng đồng,…thì nơi đó không thể nào có sự phát triển
bền vững. Do đó, cách ứng xử có văn hóa là điều tối cần thiết trong việc phát triển DL
và văn hóa DL, củng cố và nâng cao giá trị văn hóa và hình ảnh của đất nước, con
người Việt Nam


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status