Đánh giá thực trạng và tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện phù cừ tỉnh hưng yên - Pdf 30


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM DOÃN MẠNH ĐÔNG
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
QUY HOẠCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÙ CỪ - TỈNH HƯNG YÊN
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ: 60.85.01.03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ THỊ BÌNH
HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo và cán bộ Ủy ban nhân dân huyện Phù
Cừ, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Thống kê, Ủy ban nhân dân các xã,
thị trấn thuộc huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo cơ quan và bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn.

Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả luận văn Doãn Mạnh Đông
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG vii
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ viii
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục đích - yêu cầu của đề tài 2
2.1 Mục đích của đề tài 2
2.2 Yêu cầu của đề tài 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1 Cơ sở lý luận về quy hoạch nông thôn mới 3

2.3.1 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu, tài liệu 27
2.3.2 Phương pháp so sánh 28
2.3.3 Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu 28
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 29
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Phù Cừ 29
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 29
3.1.2 Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 34
3.1.3 Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện 37
3.2 Thực trạng phát triển nông thôn huyện Phù Cừ 39
3.2.1 Thực trạng phát triển nông thôn 39
3.2.2 Tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới 44
3.3 Đánh giá các tiêu chí nông thôn mới theo Bộ tiêu chí quốc gia được thực
hiện trên địa bàn huyện Phù Cừ 52
3.3.1 Nhóm tiêu chí về quy hoạch 52
3.3.2 Nhóm tiêu chí về hạ tầng - kinh tế - xã hội 52
3.3.3 Nhóm tiêu chí về kinh tế và tổ chức sản xuất 53
3.3.4 Nhóm tiêu chí về văn hoá - xã hội - môi trường 54
3.3.5 Nhóm tiêu chí về hệ thống chính trị 55
3.4 Đánh giá tình hình tổ chức thực hiện đồ án Quy hoạch xây dựng nông
thôn mới xã Đình Cao - huyện Phù Cừ 55
3.4.1 Tóm tắt phương án quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Đình Cao -
huyện Phù Cừ - tỉnh Hưng Yên đến năm 2020 55
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.4.2 Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Đình
Cao 63
3.4.3 Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quy hoạch xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn huyện 74
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 76

Giá tr
ị sản xuất

HĐND

H
ội đồng nhân dân

HTX Hợp tác xã
MTQG

M
ục ti
êu qu
ốc gia

NSTW

Ngân sách Trung ương

NTM Nông thôn mới
NTTS

Nuôi tr
ồng thủy sản

PTNT

Phát tri
ển nông thôn



TMDV Thương mại dịch vụ
TTCN

Ti
ểu thủ công nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

VSMTNT Vệ sinh môi trường nông thôn
XD Xây dựng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

3.1 Dân số, mật độ dân số phân theo đơn vị hành chính của xã 36
3.2 Kết quả thực hiện 19 tiêu chí theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới
của 13 xã 51
3.3 Quy hoạch sử dụng đất xã Đình Cao, huyện Phù Cừ đến năm 2020 56
3.4 Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp xã Đình Cao 56
3.5 Quy hoạch hệ thống trạm biến áp xã Đình Cao 61
3.6 Quy hoạch nghĩa trang, nghĩa địa xã Đình Cao 63
3.7 Kết quả thực hiện phương án Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2014 xã
Đình Cao, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên 66

Xây dựng nông thôn mới là chương trình mục tiêu quốc gia chiếm vị trí
hết sức quan trọng. Thực hiện Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 02/02/2010 và
Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/06/2010 của Thủ tướng Chính Phủ. Bộ tài
nguyên môi trường, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có văn bản hướng
dẫn các địa phương triển khai công tác lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
Theo đó, quy hoạch xây dựng nông thôn mới phải gắn với đặc trưng vùng miền
và các lợi thế của từng địa phương là nhằm đáp ứng sự phát triển theo các tiêu
chí nông thôn mới do Chính phủ ban hành tại Quyết định số 491/QĐ – TTg ngày
16/4/2009.
Huyện Phù Cừ là huyện nằm ở cực Đông của tỉnh Hưng Yên, thuộc vùng
đồng bằng Bắc Bộ, gồm 1 thị trấn và 13 xã. Trong những năm qua huyện Phù Cừ
đã có bước chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là việc xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn như: Điện, đường, trường, trạm, Vấn đề
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn của huyện đang tạo ra một bộ mặt
mới theo hướng rất tích cực.
Tuy nhiên, đời sống nhân dân của huyện vẫn còn gặp nhiều khó khăn: giá
trị tăng thêm bình quân đầu người chưa cao, VSMTNT còn chưa được quan tâm,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

thu ngân sách trên địa bàn còn rất hạn chế, đặc biệt trên địa bàn thường chịu ảnh
hưởng bởi lũ lụt, hạn hán và mưa bão.
Vì vậy, đánh giá kết quả công tác tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện là rất cần thiết nhằm tìm ra những vấn đề tồn tại của
chương trình xây dựng nông thôn trên địa bàn huyện và tìm ra những giải pháp
giải quyết kịp thời những tồn tại đó, góp phần thực hiện thành công chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Phù Cừ.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá
thực trạng và tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn huyện Phù Cừ – tỉnh Hưng Yên”.

rất nhiều định nghĩa khác nhau.
Khi định nghĩa về nông thôn người ta thường so sánh nông thôn với đô
thị. Có ý kiến cho rằng, khi xem xét nông thôn dùng chỉ tiêu mật độ dân số, số
lượng dân cư: ở nông thôn thấp hơn so với thành thị. Có ý kiến dùng chỉ tiêu
trình độ cơ cấu hạ tầng để phân biệt nông thôn với thành thị.
Quan điểm khác cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường,
phát triển hàng hoá để xác định vùng nông thôn (nông thôn thấp hơn).
Lại có quan điểm cho rằng, vùng nông thôn là vùng mà dân cư ở đây làm
nông nghiệp là chủ yếu.
Như vậy có thể thấy rằng, khái niệm về nông thôn chỉ mang tính chất
tương đối, thay đổi theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của
các quốc gia trên thế giới. Khái niệm nông thôn bao gồm nhiều mặt có quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Có thể hiểu: “Nông thôn là vùng khác với vùng đô thị là ở đó có một cộng
đồng chủ yếu là nông dân làm nghề chính là nông nghiệp, có mật độ dân cư thấp
hơn, có cơ cấu hạ tầng kém phát triển hơn, có mức độ phúc lợi xã hội thua kém
hơn, có trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hoá thấp
hơn ” (Vũ Thị Bình, 2006).
1.1.1.2. Phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn (PTNT) nhìn chung được diễn tả bao gồm các hành
động và sáng kiến được thực hiện để cải thiện mức sống khu vực ngoài đô thị,
nông thôn, và các làng bản xa xôi. Những cộng đồng này có thể được nhận diện
bởi mật độ dân số thấp, người dân sống trong các vùng không gian mở
Như vậy, PTNT là hệ thống đảm bảo sự phát triển tổng hợp kinh tế, xã
hội, văn hóa và bảo vệ môi trường tại khu vực nông thôn nhằm vào việc cải thiện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

mức sống, cả tinh thần và vật chất của dân cư nông thôn. Tùy theo góc độ xem
xét, PTNT có thể được diễn giải theo những cách khác nhau. Góc độ xem xét và


Theo cách tiếp cận phát triển, PTNT có thể bao gồm tiếp cận phát triển
thông thường từ trên xuống; tiếp cận phát triển từ cộng đồng, từ người dân đi lên
và tiếp cận phát triển có kết hợp từ trên xuống với từ dưới đi lên. Mỗi cách tiếp
cận có thể có lợi thế riêng. Tuy vậy tiếp cận thông thường, tiếp cận từ trên xuống
đang bộc lộ nhiều nhược điểm, không còn tạo ra động lực cho PTNT, nhất là việc
áp dụng tại cấp cơ sở địa phương. Tiếp cận từ dưới lên coi trọng vai trò của cộng
đồng, cho rằng cộng đồng khi được nâng cao năng lực, được trao quyền có thể
phát huy vai trò làm chủ, quản lý các nguồn lực từ huy động các nguồn lực trong
và ngoài cộng đồng phục vụ việc tổ chức thực hiện các hoạt động cơ bản, thiết
yếu, quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản tốt hơn (Viện quy hoạch và thiết kế nông
nghiệp (2010), Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ: nghiên cứu hỗ trợ xây
dựng mô hình phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng làm cơ sở cho việc đề
xuất chính sách xây dựng nông thôn mới trong điều kiện của Việt Nam.)

1.1.1.3. Phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về PTNT theo định hướng cộng đồng
và có một số cách dùng từ khác nhau như phát triển theo định hướng cộng đồng,
phát triển dựa vào cộng đồng, phát triển do cộng đồng làm chủ và phát triển lấy
người dân làm trung tâm. Phát triển theo các tên gọi khác nhau này đều có chung
bản chất là phát triển theo định hướng cộng đồng.
Phát triển theo định hướng cộng đồng cho rằng các cộng đồng địa phương
khi có được quyền ra các quyết định và quản lý các nguồn lực trong tay sẽ thực
hiện việc phát triển tốt hơn.
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới, phát triển do cộng đồng làm chủ
phụ thuộc vào việc xây dựng mối quan hệ đối tác giữa các tổ chức cộng đồng,
các tổ chức phi chính phủ với các đơn vị cung cấp các dịch vụ tư nhân hay công
cộng (như dịch vụ khuyến nông). Trong điều kiện của Việt Nam, có thể hiểu
trong điều kiện khi chính quyền xã, các thôn và các tổ chức cộng đồng đang giữ
vai trò chủ đạo trong việc lựa chọn, lập kế hoạch và quản lý các chương trình,

các nội dung thông thường trong PTNT như tất cả các cách thức PTNT khác,
quan trọng hơn chính là tìm ra con đường, cách thức để thực hiện nó. Các vấn đề
l ý luận về PTNT dựa vào cộng đồng, nhìn chung, xoay quanh việc xem xét cơ
chế, cách thức để huy động sự tham gia tự nguyện và chủ động của cộng đồng
vào tổ chức PTNT (Viện quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, 2010).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

1.1.2. Mối liên hệ giữa phát triển nông thôn, xây dựng nông thôn mới và
chương trình nông thôn mới
a. Vị trí và phạm vi của PTNT
Như được phân tích ở trên, PTNT bao gồm các hoạt động đa ngành nhằm
mục tiêu cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn. Theo cách
đánh giá phục vụ các mục tiêu khác nhau, nội dung liên quan trong PTNT cũng
thay đổi khác nhau tương ứng. Tuy vậy nhìn chung, nội dung PTNT là rất rộng
lớn, có thể bao gồm các hoạt động đa ngành, liên quan đến nhiều cấp độ khác
nhau diễn ra chủ yếu tại khu vực nông thôn. Như vậy tất cả các hoạt động nhằm
đến mục tiêu cuối cùng, có tác động đến việc cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của bộ phận dân cư, của các cộng đồng nông thôn một cách bền vững, đều
có thể coi là hoạt động, nội dung của PTNT.
b. Vị trí và phạm vi của xây dựng NTM
Xây dựng nông thôn mới NTM có thể tạm coi là một bộ phận, hợp phần
của tổng thể PTNT. Nếu căn cứ vào diễn giải ngôn từ, nông thôn mới sẽ khác
biệt với nông thôn hiện nay hoặc với nông thôn trước kia. Sự khác biệt đó hàm ý
sự thay đổi theo hướng tích cực của vùng nông thôn. Các thay đổi có thể về bộ
mặt nông thôn thể hiện ra bên ngoài nói chung, nhưng cũng có thể là các thay đổi
về chất lượng, về tinh thần tạo ra động lực thúc đẩy PTNT tại vùng phạm vi địa
lý nhất định. Nếu PTNT là vấn đề phát triển chung, có sự thống nhất tương đối
và có thể chia sẻ giữa các nước khác nhau trên thế giới, thì xây dựng NTM có
tính chất đặc thù. Không nhiều nước sử dụng và phát triển nội dung này thành

trì, thực hiện hỗ trợ một số lĩnh vực cụ thể về quản lý, kỹ thuật và nguồn lực
trong việc xây dựng NTM. Các lĩnh vực, cách thức hỗ trợ của Nhà nước trong
chương trình NTM phải là thiết yếu, có hiệu quả, tạo ra tác động tích cực trong
xây dựng NTM cấp cơ sở. Nếu như xây dựng NTM là một quá trình lâu dài thì
chương trình NTM được thực hiện trong một khung thời gian nhất định (Quyết
định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009).
Như vậy, chương trình NTM do Nhà nước khởi xướng và thiết kế chương
trình, trong đó có phần hỗ trợ quan trọng và phù hợp của Nhà nước nhắm đến
việc xây dựng NTM. Chương trình NTM thường có khung thời gian trong giai
đoạn 5-10 năm đầu của quá trình xây dựng NTM.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

1.2. Tình hình quy hoạch phát triển nông thôn trên thế giới
1.2.1. Nhật Bản: Con đường hiện đại hóa nông nghiệp theo mô hình tiết kiệm
đất đai
Bắt đầu từ thời Minh Trị Duy Tân cho đến trước khi công nghiệp phát
triển nhanh chóng sau chiến tran, lương thực luôn là một trong những vấn đề chủ
yếu mà Nhật Bản phải đối diện. Một mặt, họ mưu cầu có thể tự cung cấp lương
thực, mặt khác lại gặp phải tình trạng nông nghiệp mất dần ưu thế, vấn đề điều
chỉnh nông nghiệp của Nhật Bản lúc này cực kỳ cấp thiết.
Năm 1870, Nhật Bản nhập nông cụ, phân bón và giống từ các nước Âu,
Mỹ nhằm hiện đại hóa nông nghiệp, mô phỏng Âu, Mỹ thiết lập các xưởng chế
tạo nông cụ, bãi ươm giống, ruộng thí nghiệm Nhưng thực tiễn đã chứng minh,
con đường hiện đại hóa nông nghiệp theo mô hình “tiết kiệm lao động” của Âu,
Mỹ không phù hợp với một Nhật Bản lạc hạu về kinh tế, đất chật người đông,
quy mô nông điền nhỏ. Xuất phát từ thực tế đó, Nhật Bản lựa chọn một phương
thức kinh doanh theo mô hình “tiết kiệm đất đai”, nhằm nhiều vào lao động và
phân bón, cải thiện hệ thống thủy lợi nội đồng, nhân rộng các giống cây trồng tốt,

nghiệp đang ngày càng được đẩy mạnh.
Nguyên tắc của Trung Quốc là quy hoạch đi trước, định ra các biện pháp
thích hợp cho từng nơi, đột phá trọng điểm, làm mẫu đường. Chính phủ hỗ trợ,
nông dân xây dựng. Với mục tiêu “ly nông bất ly hương” Trung Quốc đã thực
hiện đồng thời 3 chương trình phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Chương trình đốm lửa: Điểm khác biệt của chương trình này là trang bị
cho hàng triệu nông dân các tư tưởng, tiến bộ khoa học, bồi dưỡng nhân tài đốm
lửa, nâng cao tố chất nông dân. Sau 15 năm thực hiện, chương trình đã bồi dưỡng
được 60 triệu thanh niên nông thôn thành một đội ngũ cán bộ khoa học cốt cán, tạo
ra một động lực tiềm năng thúc đẩy nông thôn phát triển theo kịp với thành thị.
- Chương trình được mùa: chương trình này giúp đại bộ phận nông dân áp
dụng khoa học tiên tiến, phương thức quản lý hiện đại để phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Trong 15 năm sản lượng lương thực của Trung Quốc đã tăng lên 3 lần so
với những năm đầu 70. Mục tiêu phát triển nông nghiệp là sản xuất các nông sản
chuyện dụng, phát triển chất lượng và tăng cường chế biến nông sản phẩm.
- Chương trình giúp đỡ vùng nghèo: mục tiêu là nâng cao mức sống của
các vùng nghèo, vùng miền núi, dân tộc ít người; mở rộng ứng dụng thành tựu
khoa học tiên tiến, phổ cập tri thức khoa học công nghệ và bồi dưỡng cán bộ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

khoa học cốt cán cho nông thôn xa xôi, tăng sản lượng lương thực và thu nhập
của nông dân. Sau khi thực hiện chương trình, ở những vùng này, số dân nghèo
giảm từ 1,6 triệu người xuống còn 5 vạn người, diện nghèo khó giảm từ 47%
xuống còn 1,5%.
Tại hội nghị toàn thể Trung Ương lần thứ 5 khóa XVI của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, năm 2005, lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra quy hoạch “Xây dựng
nông thôn mới xã hội chủ nghĩa”. Đây là kế hoạch xây dựng mới đã được Trung
Quốc đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm lần thứ XI (2006-
2010). Mục tiêu của quy hoạch là: “sản xuất phát triển, cuộc sống dư dật, làng

toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác trong sản
xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm
thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước…
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã tập
trung vào các nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công
nghiệp nông thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ
năng truyền thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song
song với việc cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng
nông nghiệp, thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp
chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công
nghiệp phát triển. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan phát triển
rất mạnh nhờ một số chính sách sau:
- Chính sách phát triển nông nghiệp: Một trong những nội dung quan
trọng nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2000-2005 là kế hoạch
cơ cấu lại mặt hàng nông sản của Bộ Nông nghiệp Thái Lan, nhằm mục đích
nâng cao chất lượng và sản lượng của 12 mặt hàng nông sản, trong đó có các mặt
hàng: gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ Thái Lan cho rằng, càng có
nhiều nguyên liệu cho chế biến thì ngành công nghiệp chế biến lương thực thực
phẩm mới phát triển và càng thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Nhiều sáng
kiến làm gia tăng giá trị cho nông sản được khuyến khích trong chương trình Mỗi
làng một sản phẩm và chương trình Quỹ làng.
- Chính sách bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm: Chính phủ Thái Lan
thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm. Năm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

2004, Thái Lan phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là
bếp ăn của thế giới”. Mục đích chương trình này là khuyến khích các nhà chế
biến và nông dân có hành động kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm để bảo


bằng lá. Là nước nông nghiệp trong khi lũ lụt và hạn hán lại xảy ra thường
xuyên, mối lo lớn nhất của chính phủ khi đó là làm sao đưa đất nước thoát khỏi
đói, nghèo.
Phong trào Làng mới (SU) ra đời với 3 tiêu chí: cần cù (chăm chỉ), tự lực
vượt khó và hợp tác (hiệp lực cộng đồng). Năm 1970, sau những dự án thí điểm
đầu tư cho nông thôn có hiệu quả, Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức phát động
phong trào SU và được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Họ thi đua cải tạo nhà
mái lá bằng mái ngói, đường giao thông trong làng, xã được mở rộng, nâng cấp;
Các công trình phúc lợi công cộng được đầu tư xây dựng. Phương thức canh tác
được đổi mới, chẳng hạn, áp dụng canh tác tổng hợp với nhiều mặt hàng mũi
nhọn như nấm và cây thuốc lá để tăng giá trị xuất khẩu. Chính phủ khuyến khích
và hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy ở nông thôn, tạo việc làm và cải thiện thu
nhập cho nông dân.
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kỳ diệu. Chỉ
sau 8 năm, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn cơ bản được hoàn
thành. Trong 8 năm từ 1971-1978, Hàn Quốc đã cứng hóa được 43.631km đường
làng nối với đường của xã, trung bình mỗi làng nâng cấp được 1.322m đường;
cứng hóa đường ngõ xóm 42.220km, trung bình mỗi làng là 1.280m; xây dựng
được 68.797 cầu (Hàn Quốc là đất nước có nhiều sông suối), kiên cố hóa
7.839km đê, kè, xây 24.140 hồ chứa nước và 98% hộ có điện thắp sáng. Đặc biệt,
vì không có quỹ bồi thường đất và các tài sản khác nên việc hiến đất, tháo dỡ
công trình, cây cối, đều do dân tự giác bàn bạc, thỏa thuận, ghi công lao đóng
góp và hy sinh của các hộ cho phong trào.
Nhờ phát triển giao thông nông thôn (GTNT) nên các hộ có điều kiện mua
sắm phương tiện sản xuất. Cụ thể là, năm 1971, cứ 3 làng mới có 1 máy cày, thì
đến năm 1975, trung bình mỗi làng đã có 2,6 máy cày, rồi nâng lên 20 máy vào
năm 1980. Từ đó, tạo phong trào cơ khí hóa trong sản xuất nông nghiệp, áp dụng
công nghệ cao, giống mới lai tạo đột biến, công nghệ nhà lưới, nhà kính trồng
rau, hoa quả đã thúc đẩy năng suất, giá trị sản phẩm nông nghiệp, tăng nhanh.

Thứ tư, phát huy dân chủ để phát triển nông thôn. Hàn Quốc thành lập hội
đồng phát triển xã, quyết định sử dụng trợ giúp của chính phủ trên cơ sở công
khai, dân chủ, bàn bạc để triển khai các dự án theo mức độ cần thiết của địa
phương. Thành công ở Hàn Quốc là xã hội hóa các nguồn hỗ trợ để dân tự quyết
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

định lựa chọn dự án, phương thức đóng góp, giám sát công trình.
Thứ năm, phát triển kinh tế hợp tác từ phát triển cộng đồng Hàn Quốc đã
thiết lập lại các hợp tác xã (HTX) kiểu mới phục vụ trực tiếp nhu cầu của dân, cán
bộ HTX do dân bầu chọn. Phong trào SU là bước ngoặt đối với sự phát triển của
HTX hoạt động đa dạng, hiệu quả trong dịch vụ tín dụng, cung cấp đầu vào cho
sản xuất, tiếp thị nông sản, bảo hiểm nông thôn và các dịch vụ khác. Trong vòng
10 năm, doanh thu bình quân của 1 HTX tăng từ 43 triệu won lên 2,3 tỉ won.
Thứ sáu, phát triển và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường bằng sức mạnh toàn
dân. Chính phủ quy hoạch, xác định chủng loại cây rừng phù hợp, hỗ trợ giống,
tập huấn cán bộ kỹ thuật chăm sóc vườn ươm và trồng rừng để hướng dẫn và yêu
cầu tất cả chủ đất trên vùng núi trọc đều phải trồng rừng, bảo vệ rừng. Nếu năm
1970, phá rừng còn là quốc nạn, thì 20 năm sau, rừng xanh đã che phủ khắp
nước, và đây được coi là một kỳ tích của phong trào SU.
Phong trào SU của Hàn Quốc đã biến đổi cộng đồng vùng nông thôn cũ
thành cộng đồng nông thôn mới ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Khu vực nông
thôn trở thành xã hội năng động có khả năng tự tích lũy, tự đầu tư và tự phát
triển. Phong trào SU, với mức đầu tư không lớn, đã góp phần đưa Hàn Quốc từ
một nước nông nghiệp lạc hậu trở nên giàu có. (Đinh Quang Hải, Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, 2010).
1.3. Tình hình quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam và ở tỉnh
Hưng Yên
1.3.1. Tình hình quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Ngay trong những năm đầu triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia về


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status