BỆNH HỌC THỰC HÀNH - BỎNG - Pdf 17

BỆNH HỌC THỰC HÀNH
BỎNG
Đại Cương
Bỏng là tổn thương do tác dụng trực tiếp của các yếu tố vật lý (nhiệt,
bức xạ, điện…) và hoá học gây ra trên cơ thể. Da là bộ phận thường bị tổn
thương nhất khi bị bỏng, kế đến là các lớp sâu dưới ga (cân, cơ, xương, khớp,
mạch máu, thần kinh) và một số cơ quan (đường hô hấp, ống tiêu hoá, bộ
phận sinh dục)…
Theo YHHĐ, từ ‘Bỏng’ lần đầu tiên được nhắc đến trong tập ‘Corpus
Hipocraticum’ của Hipocrate. Từ năm 1938, Wilson đề xuất dùng tên gọi
bệnh bỏng.
Tại Việt Nam, danh y Tuệ Tĩnh đã phân loại bỏng nước sôi, bỏng lửa
và trong ‘Nam Dược Thần Hiệu’ ghi lại 19 phương thuốc trị bỏng đơn giản.
Trong ‘Hành Giản Trân Nhu’ của Hải Thượng Lãn Ông ghi 6 phương
thuốc trị bỏng nước sôi, bỏng lửa, bỏng dầu sôi.
Trẻ nhỏ dưới 5 tuổi bị bỏng chiếm 33-35%, trẻ dưới 16 tuổi chiếm 57-
65%.
Đông y gọi là Nãng Thương.
Trên lâm sàng, các sách giáo khoa Đông y phân làm ba loại chính là
Thuỷ Nãng (Bỏng nước), Du Nãng (Bỏng do dầu), Thiêu Thương (Bỏng do
hơi nóng, lửa…). Bỏng nước nhẹ nhất, bỏng do dầu nặng hơn, còn bỏng lo
nhiệt nặng nhất.
Tác Nhân Gây Bỏng
+ Bỏng Do Nhiệt: thường gặp nhất, chiếm 84-93%. Chia thành hai
nhóm: Nhóm do nhiệt khô (lửa, tia lửa điện, kim loại nóng chảy…) chiếm
27-32% và nhóm do nhiệt ướt (nước sôi, thức ăn nóng sôi, dầu mỡ sôi, hơi
nước nóng…) chiếm 53-61%.
+ Bỏng Do Dòng Điện chia thành hai nhóm: Do luồng nhiệt có hiệu
điện thế thông dụng (dưới 1000 volt) và do luồng điện có hiệu điện thế cao
(trên 1000 volt). Sét đánh cũng gây bỏng do luồng điện có điện thế cao.
+ Bỏng Do Hoá Chất (2,3-8%): gồm các chấy oxy hoá, chất khử oxy,

diện tích cơ thể:
Đầu mặt cổ: 9%
Thân phía trước : 18%
Thân phía sau: 18%
Chi trên: 9% (mỗi bên)
Chi dưới: 18% (mỗi bên)
Vùng sinh dục: 1%
Tuy nhiên ở trẻ nhỏ có hơi khác:
Trẻ sơ sinh: đầu chiếm 19%. Trẻ một tuổi: đầu chiếm 17%. Như vậy
trẻ nhỏ bị bỏng ở đầu sẽ bị nặng hơn.
Vùng Giải Phẫu 1
tuổi
5
tuổi
10
tuổi
15
tuổi
. Đầu + Mặt + Cổ
. Đùi (hai bên)
. Cẳng chân (hai bên)

17
(- 4)
= 13
(- 3)
= 10
(-
4) = 13
(+

Bị bỏng mắt, cần xử trí kịp thời để bảo vệ mắt. Ngay sau khi bị bỏng,
cần rửa mắt nhiều lần bằng nước lạnh sạch, vô khuẩn, sau đó gửi đến chuyên
khoa mắt.
Điều trị
+ Bỏng Nhẹ:
. Nhúng vùng bị bỏng vào vòi nước lạnh ngay lập tức.
. Hoặc đắp chỗ bỏng bằng gạc (khăn tay hoặc khăn tắm) thấm nước
lạnh cho đến khi bớt đau.
. Tháo hết các đồng hồ, vòng đeo tay, nhẫn, dây thắt lưng hoặc quân
áo chật tại vùng bị bỏng trước khi chỗ bỏng sưng lên.
. Băng lại bằng gạc sạch (vô trùng).
+ Bỏng Nặng:
. Nếu quần áo nạn nhân đang cháy, dội nước lên nạn nhân, hoặc trùm
khăn lên nạn nhân và đặt nằm dưới đất.
. Không nên cởi quần áo đã dính vào vết thương, nhưng phải che vùng
bỏng lại bằng quần áo sạch, khô, không có bụi, bông để tránh nhiễm trùng.
. Cắt lọc bỏ da đã bị nát cho vết bỏng vừa sạch vừa gọn.
. Cho bệnh nhân bỏng mặc quần áo nhẹ, vô trùng hoặc không mặc gì
để vết bỏng dễ khỏi. Cố gắng giữ da sạch sẽ, cách ly bệnh nhân.
Dùng một trong các bài thuốc sau:
Thanh Lương Cao (Y Tông Kim Giám): Nước vôi trong, một phần
(cách lấy: Vôi loại càng lâu càng tốt, hoà với nhiều nước dễ thật lắng, hớt bỏ
váng, chỉ lấy nước trong, không lấy cặn ở dưới), dầu Mè (vừng) một phần.
Trộn thật đều thành một chất nước đục trắng như sữa, bôi lên vết bỏng, hoặc
tẩm vào gạc đắp lên vết thương bỏng. Cứ hai ngày thay băng một lần. Mỗi
lần thay băng, phải rửa sạch vết bỏng (Nông Thôn Y Sĩ Thủ Sách).
Bài thuốc này tuy đơn giản nhưng có cơ sở lý luận khoa học: Nước
Vôi trong là dung dịch Hydroxid Calci (Ca(OH)2, một loại Bazơ, vì ít tan
trong nước nên dung dịch này là một chất kiềm tương đối yếu. Tại chỗ bỏng
có một sự rối loạn chuyển hoá các chất Glucid, Lipid, Protid. Các chất này

cao tính hơi hàn, có tác dụng giải hoả độc làm cho hết sưng. Băng phiến, chủ
yếu là chất Borneol có tác dụng sát trùng, tiêu viêm làm giảm đau cục bộ.
Hợp với Thần sa (la Sulfur thuỷ ngân HgS) có tác dụng an thần, sát trùng,
tiêu viêm. Bằng sa có tác dụng sát trùng, tiêu viêm, giảm đau cục bộ. Bài
thuốc này có tác dụng chính là sát trùng, giảm đau, làm cho mặt vết bỏng hết
mủ , mau thành sẹo, lên da non.
+ Giáp Tự Đề Độc Phấn (Bệnh viện Tích Thuỷ Đàm, Bắc Kinh):
Hồng phấn, Khinh phán đều 40g, Huyết kiệt 16g, Chu sa 12g, Băng phiến 8g,
Xạ hương 2g. Tán thật nhuyễn (không trông rõ từng hạt óng ánh là được),
cho vào lọ kín để dùng. Chỉ dùng bôi bên ngoài, không được uống. Khi
dùng: rửa sạch vết bỏng, rắc một lớp thuốc mỏng lên trên mặt vết bỏng.
Băng lại cho khỏi bụi. Mỗi ngày hoặc cách ngày thay một lần thuốc.
Hồng phấn còn gọi là Thăng dược, thành phần chủ yếu là Oxyd Thuỷ
ngân HgO, Khinh phấn, thành phần hoá học là Clorua thuỷ ngân Hg2Cl2.
Huyết kiệt còn gọi là Kỳ lân kiệt. Chu sa thành phần hoá học là Sulfur thuỷ
ngân HgS. Băng phiến là chất Borneol được tinh chế. Xạ hương là hạch
thơm của con chồn hương. Bài thuốc có tác dụng đối với vi trùng nuôi cấy
cho thấy có tác dụng ức chế rõ đối với tụ cầu vàng, trực trùng mủ xanh, trực
trùng Coli, Proteus.
Tác dụng trên vết bỏng cho thấy: trong thời gian điều trị, lượng vi
khuẩn trên mặt vết bỏng giảm rõ rệt và có tác dụng loại trừ các mảng thịt
thối rữa. Khi dùng thuốc có thể thấy mặt vết bỏng phù nề, thịt sần sùi hoá
thành nước làm cho mặt vết bỏng trở nên bằng phẳng. Tuy nhiên đối với lớp
da lành chung quanh và tổ chức da mới sinh không bị phá huỷ, điều đó cho
thấy thuốc không những có tác dụng làm tiêu các thịt bị huỷ hoại mà còn có
tác dụng cải thiện sự tuần hoàn dinh dưỡng, giảm đau do thúc đẩy sự sinh
trưởng tổ chức mới và giúp thành sẹo.
Kết quả: Điều trị 10 ca bỏng trung bình sau 46 ngày:
. Vết bỏng diện tích 1 x 1cm đến 2 x 2cm khỏi trong một tuần.
. Vết bỏng lớn, diện tích 13 x 5cm hoặc 11 x 7cm, trong 2-3 tuần khỏi.

Tử thảo, Bạch chỉ, Nhẫn đông đằng, Địa du đều 50g, Đại hoàng 15g, Băng
phiến 2,5g, Hương du (Dầu thơm) 500g. Trừ Băng phiến, các vị trên cho vào
dầu, đun sôi 30 phút, bỏ bã, cho Băng phiến vào, trộn đều làm thành cao.
Sau khi thanh trùng chỗ bỏng, bôi thuốc vào, đắp gạc vô trùng lên. Nếu
không bị nhiễm trùng 5 ~ 7 ngày thay một lần.
TD: Lương huyết, thanh nhiệt, tiêu thủng chỉ thống. Trị bỏng.
Đã trị 104 ca. thời gian điều trị: độ I có 19 ca, trung bình 6,2 ngày. Độ
II nhẹ có 62 ca, trung bình 14,5 ngày. Độ II nặng có 15 ca trung bình 36
ngày. Độ III có 8 ca, trung bình 65,3 ngày. Đạt tỉ lệ chung 100%.
Châm Cứu
Tuy không trực tiếp giải quyết được vết thương bỏng nhưng châm cứu
là một biện pháp hỗ trợ trong điều trị bỏng để giải quyết những biến chứng
như bí tiểu, hôn mê và hư thoát do nhiệt độc của bỏng gây nên:
+ Bí Tiểu: Thuỷ phân, Trung cực, Quan nguyên, Thận du, Bàng quang
du, Tam âm giao, Âm lăng tuyền, Thái khê, Thuỷ đạo. Kích thích nhẹ, lưu
kim ngắn.
+ Hôn mê: Nhân trung, Bá hội, Lao cung, Trung xung, Trung quản
(kích thích nhẹ), Nội quan, Túc tam lý, Hợp cốc. Lưu kim một giờ.
+ Hư Thoát: nên cứu Bá hội, Khí hải, Quan nguyên, Túc tam lý,
Trung quản (Trung Y Ngoại Khoa Giảng Nghĩa).
Phòng Phỏng Và Điều Dưỡng
1. Tuyên truyền giáo dục mọi người chú ý những nguyên nhân gây
bỏng, có biện pháp đề phòng, nhất là đối với trẻ em.
2. Theo dõi thân nhiệt, mạch, huyết áp hằng ngày.
3. Bệnh nhân nặng phải nằm drap vô khuẩn, giường mềm và luôn thay
đổi tư thế.
4. Chế độ ăn đủ chất dinh dưỡng và chú ý chống nhiễm khuẩn.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status